Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Nguyễn Lộc Yên (Danlambao)
- Đất nước Việt Nam đã tồn tại 4.892 năm (2879 TCN-2013 SCN), với thời
gian dài gần 5.000 năm ấy có nhiều thăng trầm và biến chuyển theo dòng
lịch sử. Tưởng cũng cần khái quát qua những mốc thời gian biến chuyển ấy
để tiện theo dõi sự liên quan của bài viết này.
Thời gian nước Việt Nam bị đô hộ bởi ngoại xâm:
Tổng cộng thời gian 5 lần Bắc thuộc là 1103 năm. Lần cuối cùng là 20
năm, từ năm 1407 đến 1427; trong thời gian này, nhà Minh nhân Hồ Quí Ly
cướp ngôi nhà Trần, lấy cớ “Phù Trần diệt Hồ”, đem quân xâm lăng nước
ta. Nếu không tính nhà Triệu (96 năm) là Bắc thuộc, thì còn 4 lần Bắc
thuộc cộng lại là: 1007 năm. Từ đó người Việt thường phẫn uất nói: “Nước
Việt bị Tàu đô hộ trên 1.000 năm!”.
Thực dân Pháp đô hộ nước Việt Nam kể từ hòa ước Patennôtre hay hòa ước
Giáp thân (1884) là 61 năm (1884-1945); nếu tính từ hòa ước Nhâm tuất
(1862) là 83 năm.
Quốc hiệu của nước Việt theo dòng lịch sử:
Về quốc hiệu của nước ta, với thời gian dài gần năm nghìn năm ấy, theo các sử liệu xin được ghi nhận khái quát như sau:
1- Xích Quỷ:
Theo huyền sử, Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú
phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, nước Tàu ngày nay) kết hôn với con
gái bà Vụ Tiên, sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên
Lộc Tục. Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi, làm vua phương
Bắc và phong Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh
Dương Vương là thủy tổ của người Việt. Lãnh thổ của nước Xích Quỷ rộng
lớn, phía bắc tới sông Dương Tử, phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm
Thành), phía đông giáp Đông Hải, phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên nước
Tàu ngày nay).
2- Văn Lang: Thời
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ, truyền được
2.622 năm (2879 TCN-258 TCN), gồm có 18 Chi (47 Đời), trong thời Hùng
Vương gồm cả Kinh Dương Vương. Lãnh thổ bao gồm khu vực Đồng bằng Bắc Bộ
và 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
3- Âu Lạc:
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được hình thành với sự sáp nhập bởi 2 lãnh thổ
Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, do An Dương Vương lãnh đạo. Lãnh thổ Âu
Lạc bao gồm lãnh thổ của Văn Lang trước đây và một phần đông nam tỉnh
Quảng Tây (thuộc nước Tàu ngày nay).
4- Nam Việt:
Thời nhà Triệu (207-111 TCN), lãnh thổ Nam Việt gồm các tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây (nước Tàu ngày nay) và miền Bắc Việt Nam bây giờ. Kinh
đô là thành Phiên Ngung, là một quận của thành phố Quảng Châu (nay thuộc
tỉnh Quảng Đông nước Tàu). Có người nêu rằng Triệu Vũ Vương tổ tiên ở
châu Chân Định (ngày nay thuộc nước Tàu) nên không chính thống?! Như vậy
ai là người Việt mà chắc chắn rằng tổ tiên của mình khi xưa không ở đất
Tàu ngày nay?. Xin nhắc lại rằng: Nòi giống Bách Việt, khi xưa sống ở
vùng đất phía Nam bờ sông Dương Tử (đất Tàu ngày nay), vùng đất ấy khi
xưa là đất của người Lạc Việt, bị người Hoa Hạ cướp lấy. Ngoài ra, tổ
tiên 5 đời nhà Trần cũng sống ở đất Mân (Phúc Kiến-Trung Hoa), vậy nhà
Trần cũng không chính thống sao?!. Từ đấy, nhà Triệu có được xem là vua
chính thống không? Thưa có, vì lẽ Triệu Đà muốn nước Nam Việt độc lập,
nên giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, còn đối với các
quý tộc bản xứ vẫn được giữ thái ấp và trị dân như cũ. Triệu Vũ Vương
đã củng cố, sửa sang Nam Việt gồm cả Giao Chỉ và Cửu Chân. Sau khi quân
Hán chiếm được Nam Việt, Hán Vũ Đế lập ra Bộ Giao Chỉ.
5- Vạn Xuân: là quốc hiệu của nhà Tiền Lý (Lý Nam Đế) và Triệu Việt Vương (544-602), sau đấy bị nhà Tùy xâm lược.
6- Đại Cồ Việt:
Do Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt vào năm 968. Quốc hiệu này
tồn tại 86 năm (968-1054) cho đến đời vua Lý Thánh Tông.
7- Đại Việt:
Khi vua Lý Thánh Tông lên ngôi lấy quốc hiệu là Đại Việt (1054-1804).
Địa giới nước Đại Việt thời Lý bao gồm Bắc Bộ Việt Nam hiện nay và một
phần nhỏ của tỉnh Quảng Tây (nước Tàu), phía nam tới khu vực Hà Tĩnh
hiện nay. Quốc hiệu Đại Việt tồn tại khoảng 743 năm, trải qua các triều
đại: Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn. Tuy nhiên, quốc hiệu Đại Việt không
liên tục (gián đoạn 7 năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh).
8- Đại Ngu:
Khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, quốc hiệu này
tồn tại 7 năm (1400-1407). Sau khi nhà Hậu Lê (Lê Lợi) giành lại độc lập
cho đất nước, quốc hiệu Đại Việt được dùng trở lại.
9- Việt Nam:
Quốc hiệu Việt Nam bắt đầu từ thời nhà Nguyễn. Vua Gia Long cử Lê Quang
Định làm chánh sứ sang Tàu xin phong vương, đổi tên nước là Nam Việt,
vì cho rằng "Nam" có ý nghĩa "An Nam" nước ở phương Nam và "Việt" có ý
nghĩa "Việt Thường". Nhưng quốc hiệu Nam Việt lại trùng Nam Việt thời
nhà Triệu, gồm cả Quảng Đông và Quảng Tây của nước Tàu. Nhà Thanh lo
ngại nhầm lẫn, nên đổi ngược lại thành Việt Nam vào năm 1804.
Tuy nhiên, tham khảo qua một số sử liệu và tài liệu, tên gọi Việt Nam đã
xuất hiện trước năm 1804. Cuốn Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1380-1442)
có nói đến hai chữ "Việt Nam". Trong tác phẩm của trạng Trình Nguyễn
Bỉnh Khiêm (1491-1585), ngay lời mở đầu đã có câu: "Việt Nam khởi tổ xây nền".
Ngoài ra, bia Thủy Môn Đình do Bắc quân Đô đốc phủ Lạng Sơn là Nguyễn
Đình Lộc soạn năm Cảnh Trị bách niên (năm 1670) dưới thời vua Lê chúa
Trịnh. Những dòng đầu tiên của bài Minh nơi bia Thủy Môn Đình viết “Việt Nam hầu thiệt. Trấn Bắc ải quan”, có nghĩa là: “Đây là cửa ngõ và yết hầu của nước Đại Việt, và là ải quan trấn giữ phương Bắc”.
10- Đại Nam:
Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi đổi quốc hiệu Việt Nam thành Đại Nam
ngụ ý một nước Nam rộng lớn, nhưng nhà Thanh không tán thành. Tuy nhiên,
đến ngày 15-2-1839, vua Minh Mạng vẫn chính thức công bố quốc hiệu mới
là Đại Nam. Quốc hiệu Đại Nam tồn tại đến năm 1945.
11- Đế quốc Việt Nam:
Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9-3-1945, sau đấy hoàng đế Bảo Đại tuyên
bố độc lập, xé hòa ước Patennôtre (1884) đã ký với Pháp, mời học giả
Trần Trọng Kim thành lập chính phủ “quân chủ lập hiến” vào ngày
17-4-1945, nhưng chỉ tồn tại được 5 tháng (17-4-1945 đến 25-8-1945), mặc
dù tồn tại thời gian ngắn ngủi nhưng chính phủ của Trần Trọng Kim cũng
làm được nhiều việc hữu ích cho nước Việt. Đế quốc Việt Nam chấm dứt vào
ngày 25-8-1945, khi vua Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thoái vị, vì Việt
Minh cướp chính quyền.
12- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: là tên gọi từ 1945-1976, của nhà nước miền Bắc Việt Nam.
13- Quốc gia Việt Nam:
là danh xưng của toàn bộ vùng lãnh thổ Việt Nam, ra đời chính thức từ
Hiệp ước Elysée ký ngày 8-3-1949, giữa Tổng thống Pháp Vincent Auriol và
Cựu hoàng Bảo Đại. Về danh nghĩa, chính quyền thuộc khối Liên hiệp Pháp
(ở miền Nam), đối kháng với chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (ở
miền Bắc). Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn tại trong 6 năm (1949-1955).
14- Việt Nam Cộng hòa:
Năm 1955, Ngô Đình Diệm phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, giải tán Quốc
gia Việt Nam, thành lập chính thể Việt Nam Cộng hòa tại miền Nam Việt
Nam. Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975.
15- Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:
Ngày 2-7-1976, Việt Nam Dân chủ cộng hòa được đổi tên thành Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam trên toàn quốc Việt Nam. Quốc hiệu này được sử
dụng từ đó đến nay.
*- An Nam: Đặc biệt tên gọi An Nam có nguồn gốc danh xưng
này từ thời Bắc thuộc (Việt Nam bị Tàu đô hộ), nhà Đường đã gọi vùng đất
miền Bắc Việt Nam ngày nay là An Nam đô hộ phủ (673-757 và 768-866).
Sau khi giành được độc lập, các triều vua Việt Nam thường phải nhận thụ
phong của đế quốc Tàu, danh hiệu An Nam quốc vương, xuất hiện từ năm
1164, thời vua Lý Anh Tông, chánh sứ Đại Việt là Doãn Tử Tư yêu cầu vua
Tống công nhận vua nhà Lý là An Nam Quốc Vương. Vua Tống đồng thuận gọi
tên nước ta là An Nam quốc. Từ đó, người Tàu thường gọi nước ta là An
Nam. Cách gọi này đã ảnh hưởng đến cách gọi của người châu Âu trước năm
1945. Thời kỳ thuộc Pháp, người Pháp vẫn dùng danh xưng Annam để chỉ
người Việt nói chung cho cả 3 miền: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam, vì
có triều đình Huế ở miền Trung) và Nam Kỳ (Cochinchine).
Nhận xét về nhà nước “Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”:
Trong 15 quốc hiệu của nước ta vừa trình bày, riêng “Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam” (CHXHCNVN) hiện đang tồn tại và có nhiều dư luận về nhà
nước CHXHCNVN đã gây cho nhân dân khốn đốn, đất nước bị hao hụt và tang
thương, chẳng những thế cái tên “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” nó
không còn phù hợp với sự tiến bộ của nhân loại, vì vậy chính trong Quốc
hội của nhà nước CHXHCNVN cũng đã bàn tán rùn ben về việc đổi tên nước.
Vậy mời bà con thử xem một số trang báo trong nước Việt Nam, đã bàn tán
về việc đổi tên nước như thế nào:
- Báo QĐND viết ngày 05-05-2013: “Trước hai phương án về tên nước,
giữ nguyên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hay trở lại với tên gọi
Việt Nam dân chủ cộng hòa, trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992...
cả hai tên gọi đó chỉ khác nhau về hình thức, còn bản chất đều phản ánh
chung một mục tiêu...”.
- Báo Dân trí, ngày 22-10-2013: “Các nội dung trong chương Chế độ
chính trị, trước hết, về tên nước, Trưởng Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp
Phan Trung Lý cho biết, qua tổng hợp ý kiến, đại đa số người dân, đại
biểu tán thành việc giữ tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Có 313/357 đại biểu QH được thăm dò ý kiến tán thành. Tuy nhiên, vẫn có ý
kiến đề nghị lấy lại tên nước là “Việt Nam dân chủ cộng hòa”.
- Báo Lào Cai, ngày 20-11-2013: “... còn có một số ý kiến đề nghị đổi
tên nước thành “Việt Nam”, “Việt Nam cộng hòa xã hội Chủ nghĩa”, “Việt
Nam dân chủ xã hội chủ nghĩa”, “Cộng hòa dân chủ Việt Nam”, “Cộng hòa
nhân dân Việt Nam”, “Cộng hòa dân chủ nhân dân Việt Nam”, “Cộng hòa dân
chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, “Cộng hòa Việt Nam”, “Cộng hòa Đại
Việt”...
- VnExpress.net ngày 28-9-2013 viết: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nói:
“Đề phòng thế lực muốn xóa bỏ điều 4 Hiến pháp. Quốc hội sẽ quyết định
tên nước song phải đề phòng thế lực xấu bên ngoài lợi dụng đổi tên nước
để làm việc khác, cũng như muốn bỏ sự lãnh đạo của đảng”. Trọng Lú nói tiếp: “văn kiện chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”!.
Thú thật, khi dân tôi thấy báo chí thường gọi ông Tổng bí thư là “Trọng
Lú” thì cảm thấy khó chịu, nhưng chính ông ta đã phát biểu “văn kiện
chính trị pháp lý quan trọng vào bậc nhất sau Cương lĩnh của Đảng”! Ông
ta bị Lú rất nặng như vậy, nếu không gọi “Trọng Lú” mới là sai trái?!
Nhìn chung nhà nước “Việt Nam dân chủ cộng hòa” hay “Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam”, dù có đổi bất cứ tên nước là gì đi nữa, mà vẫn “bình
mới rượu cũ”, với những người lãnh đạo tiền nhiệm đã tạo ra vết nhơ
nhường đất dâng biển cho Tàu cộng. Ngày nay, vết nhơ ấy các ngài đang
lãnh đạo vẫn khư khư đeo đuổi, thì quê hương chúng ta chỉ có tối tăm và
tăm tối mà thôi!.
Như ngài Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào ngày 19-6-2013, trong chuyến
đi sứ sang thiên triều lại quy lụy khom lưng cúi đầu quá độ trước hàng
quân của Tàu, dù sao khi ấy Tư Sang với danh nghĩa là Chủ tịch nước mà
quy lụy như thế là đã làm nhục quốc thể rồi! Nên bàn dân thiên hạ phải
đổi cách gọi Tư Sang thành biệt danh “Tư Hèn” là vậy.
Ngài Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã được ca tụng với hỗn danh là “đồng chí
X”, thế mà ngài Thủ tướng CHXHCNVN đến Pháp còn khéo léo làm trò hề gây
cho các ký giả cười ngặt nghẽo khi nhìn cử chỉ và nói năng ngớ ngẩn của
ông, sau chuyến thăm kết thúc chiều ngày 26-9-2013, đài truyền hình
Canal Plus của nước Pháp đã trình chiếu sự ngơ ngô của “đồng chí X” để
làm trò cười cho thiên hạ, nếu bà con muốn xem thì đánh vào Google “Đồng
chí X sang Pháp diễn hề” sẽ xem được ngay. Từ đấy, “đồng chí X” được
thêm một hỗn danh nữa là “Ba Trợn” cũng xứng đáng lắm đấy!
Vần thơ đoạn kết:
Nhà nước CHXHCNVN có những nhân vật lạ lẫm, có những thành tích toan
tính nhường bờ cõi đất đai, dâng biển đảo cho Tàu cộng; giỏi quơ quào
công quỹ quốc gia để làm giàu cho bản thân và gia đình; giỏi nghiền ngẫm
cách cướp ruộng vườn của nhân dân, đào phá mồ mả nơi nghĩa trang, đưa
đẩy hay buôn bán người dân làm lao công, làm nô lệ... thì không ai sánh
bằng, nhưng đối với dân với nước thì chẳng bằng ai!. Vậy thì, muốn đất
nước Việt Nam sáng sủa thật sự, có tự do, nhân quyền và hạnh phúc thật
sự, điều kiện ắt có và đủ là “Thay đổi chế độ mà thôi”?!. Để tóm tắt ý
nghĩa của chế độ này thay cho đoạn kết, người viết mạo muội dùng cái tên
“Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” làm đề tài, cho mấy vần thơ bát
cú:
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
CỘNG sản tham tàn, quá hãi hùng!
HÒA mình đầu Hán, khó khăn dung!
XÃ kia cướp đất, dân điêu đứng
HỘI nọ buôn người, cảnh não nùng!
CHỦ tịch lọc lừa, ai oán khắp
NGHĨA trang đào phá, oái oăm cùng!
VIỆT gian dâng biển cho Tàu cộng?!
NAM nữ thấy không, nỡ lạnh lùng?!
21-11-2011
No comments:
Post a Comment