Friday, June 19, 2015

Con đường tháo chạy của đại gia đỏ

Mời xem:
http://danlambaovn.blogspot.com/2015/06/con-uong-thao-chay-cua-ai-gia-o.html

Tuesday, June 16, 2015

Anh Cu Đa

ANH CU ĐA
Nguyễn Quang Lập
nhà văn nguyễn quang lập
Những năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông, nhớ nhiều người nhưng nhớ nhất anh Đa. Bây giờ kể chuyện anh Đa thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng này.
Anh Đa lùn, đen, xấu. Anh Di nói cái mặt thằng Đa chành bành giống cái l. trâu. Anh sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi hỏi cô nào cũng bị chê. Là con liệt sĩ, lại con một, anh khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ.
Mẹ anh khóc lên khóc xuống , anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ anh chết anh vẫn độc thân. Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để vậy để đàn bà nó thèm.
Anh nơm cá cực tài, cầm nơm úp nhoay nhoáy, hễ dừng lại mò là y như có một con cá to. Nghe tiếng đóng thành nơm, anh biết chắc cá nhỏ hay to, ngon hay dở để dừng lại bắt hay không. Chẳng bù cho mình, úp úp mò mò, tóm lại chỉ vài con cá diếc, cá rô. Một lần úp nơm, bao giờ xâu cá của anh cũng dài nhất, đầy những con cá ngon, đắt tiền. Mình dân Thị Trấn lên, thấy thế thì thích lắm, bám theo anh suốt ngày.
Anh chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền. Cứ mùa lúa là anh đi đập lúa cho các gia đình có chồng con đi vắng, một đêm đập lúa được trả vài lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình neo đơn.
Anh không đoàn đội. Hồi này ai không đoàn đội bị coi như thanh niên chậm tiến, con gái vì thế bụng thì chê nghèo nhưng miệng lại có cớ chê anh chậm tiến. Ai bị chê chậm tiến thì sốt ruột lắm, phấn đấu như điên, anh tỉnh bơ, không quan tâm.
Hội họp cuộc nào anh cũng đến nhưng chỉ đứng sau nghe. Thanh niên làng tranh nhau lên nói toàn từ sáo rỗng - lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu.v.v.. Anh cười hậc, é he một tiếng to rồi phủi đít quần ra về.
Hôm sau họp anh lại đến, lại đứng sau, lại nghe lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu. v.v...Anh lại cười hậc, é he một tiếng, phủi đít quần ra về.
Luôn luôn như thế.
Anh Chư gặp mình nói Lập ngoan, học giỏi, cháu ngoan Bác Hồ, đừng quan hệ với thanh niên chậm tiến. Mình dạ dạ nhưng vẫn chơi với anh cu Đa như thường. Đêm nào cũng vậy, con trai lớn chút trong làng đều đi đặt túm bẫy lươn, câu cá cặm. Đặt đầu hôm, ba bốn giờ sáng thì đi thăm.
Một đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng xách oi về thì gặp anh Đa đi từ nhà chị Thơm ra. Mình hỏi, anh đi mô ri? Anh nói, không.
Minh thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối (anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói, sao vào nhà người ta lại không mặc quần? Anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi. Nhà chị Thơm một mẹ một con, chồng "thoát li" làm lấm nghiệp, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình nghi lắm.
Mình lẻn theo anh Đa.
Anh Đa lại vào nhà chị Hà. Chị Hà có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái. Chị vẫn say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu.v.v. Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con Hà mà coi.
Mình vào sau hồi nhà chị Hà. Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu.
Mình chặn anh Đa ở cổng nhà chị Hà, nói, em biết rồi nha. Anh Đa túm cổ áo mình, nói, mi nói tao giết. Về sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.
Làng Đông có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là chồng chết hoặc "thoát li", số còn lại bị ế thuộc diện "vườn không nhà trống". Không biết anh Đa chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy, chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đa lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà kia, 5 giờ sáng thì về.
Mình hỏi, sao anh không mặc quần? Anh nói, mặc mần chi, cởi vô cởi ra mất thời giờ.

Monday, June 15, 2015

Sinh nhật buồn


Sinh nhật buồn 

-Khuất Đẩu-

Đang ngồi chờ cạo mặt ráy tai ở một quán hớt tóc đầu con hẻm, bỗng nghe lệnh của tổ dân phố phát ra oang oang trong loa phóng thanh: 
Để mừng Đảng mừng xuân, mọi nhà đều phải treo cờ tổ quốc!

Chợt nhớ ra ngày mai, mồng ba tháng hai là ngày sinh của Đảng. Và Đảng 85 tuổi. Như thế cũng đã gần thượng thọ rồi. Đảng hơn tôi 10 tuổi. Nếu là trong giới viết lách, có thể gọi thân mật bằng anh, rủ nhau đi cà-phê tán gẫu. Nhưng Đảng không phải là người, không hình thù mặt mũi, chỉ “văn kỳ thanh chứ bất kiến kỳ hình”, có muốn nâng ly chúc mừng cũng không biết chúc ai.
                 
Nhưng Đảng cũng không phải là ma. Đảng có mặt ở mọi nơi, mọi chỗ. Gần, thì tổ trưởng dân phố, công an khu vực. Xa, thì chủ tịch tỉnh, chủ tịch nước. Chót vót là tổng bí thư.
Đảng là một tổ chức chính trị trùm cả nước. Cái bóng của Đảng to đến nỗi trông lên chỉ thấy Đảng chứ không thấy Trời.

Sức mạnh của Đảng thì khỏi phải nói. Nào đánh Pháp, đuổi Mỹ... Ơn Đảng còn hơn cả ơn Chúa! Nhưng Đảng cũng là một cái gì chưa trọn, cứ phải xây dựng hoài mà chưa xong. Đảng cũng thối tha không kém, nên cứ phải làm trong sạch mãi.

Giả sử, Đảng được sinh ra trong một gia đình nào đó, có nghĩa là một sinh vật hẳn hoi, thì chẳng biết Đảng đực hay cái. Đảng không có chim, cũng không có bướm, vậy mà trong 85 năm, Đảng sinh ra đến hàng triệu đảng viên. Đảng hơn cả mẹ Âu Cơ, sinh đẻ cứ như cua, cá. Mà cua cá thì anh cứ việc xơi, chứ đảng viên, đụng vào là bỏ mẹ.

Trong số hàng triệu đảng viên, có nhiều người cùng tuổi với Đảng. Nghĩa là Đảng mới chào đời đã kịp sinh con, như cụ bà Phạm Thị Trinh, cũng đã 85 tuổi Đảng (101 tuổi đời). Đảng thì lớn mạnh vẻ vang, còn cụ thì tù đày bầm giập. Cùng tuổi với Đảng nhưng chẳng được ai chúc mừng, kể cả con cháu.

Vậy thì Đảng là cái gì mà mọi nhà đều phải treo cờ? Đến nỗi, hơn 50 năm trước, Trần Dần phải kêu lên: Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà/ chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Lá cờ mà sau đó ông gọi là lá cờ trừ ma!

Khi tôi cạo mặt ráy tai xong, ra về, cũng chưa thấy cờ như thời Trần Dần, cũng chẳng thấy ai tới hạch hỏi “người ta đổ xương máu để có được cây cờ, chỉ có mỗi một việc treo lên mà không treo, phản động à?” như hồi 75.

Bật TV, thấy Tổng bí thư đọc lê thê một bài mừng Đảng giữa một hội trường to rộng, trước những đảng viên ưu tú, áo quần sang trọng tinh tươm, nhưng người đọc thì giọng buồn mệt mỏi, người nghe thì mặt cứ trơ ra, chẳng một chút xúc động cứ như những tượng sáp!

Người ta bảo Đảng bây giờ cũng như cái xác trong lăng kia, chỉ chờ ngày chôn thôi. Tôi thì tôi không dám tin như vậy. Chẳng những thế tôi còn đâm ra sợ Đảng như nhân vật của Kafka, có thể đang hoá thân thành một con gì đó hơn cả con sâu. Bởi thế, cứ tới ngày sinh của Đảng thì tôi (và 85 triệu người không Đảng) lại buồn. Còn buồn hơn chiều chủ nhật buồn nằm trong căn gác đìu hiu!

Sunday, June 14, 2015

Nỗi lòng người cha dưới thời đại Hồ Chí Minh.

Thư viết cho con trai ngày ấy và chuyện bệnh viện bây giờ
LTS: Liên tiếp trong những ngày qua, báo chí phản ánh nhiều trường hợp chết bất thường của các sản phụ và thai nhi tại nhiều bệnh viện trong cả nước. Thực ra chuyện này không phải bây giờ mới có nhưng người dân giờ đây đã phản ứng một cách mạnh mẽ trước cái chết tức tưởi của người thân, chứ không còn im lặng như trước kia.
Phản ứng của họ đã khiến dư luận và báo chí chú ý. Do đó, những cái chết thương tâm đó mới được cộng đồng trong và ngoài nước biết tới. Vẫn biết, nghề nào cũng có “tai nạn nghề nghiệp”, kể cả ngành Y. Nhưng điều đáng nói là, tai nạn ở đây phần nhiều không phải do chuyên môn mà do thái độ tắc trách, khinh thường sinh mạng con người, vòi vĩnh tiền bạc của các nhân viên y tế.
Bẩy năm trước đây, con trai của Người Buôn Gió cũng suýt chết trong một ca đỡ đẻ cẩu thả như vậy. Chúng tôi xin đăng lại bài viết của anh.
—————————————-



Con thân yêu của bố,
Con ở nhà ăn nhiều và ngủ ngoan chứ. Bố còn đang làm công trình dưới Hải Phòng. Mấy hôm nay mưa rất nhiều khiến công việc của bố bị đình chỉ, tối nay trời vẫn mưa khiến bố nhớ con đến cồn cào. Bố nhớ cái miệng cười tủm tỉm khi con tí mẹ no, nhớ ngẩn ngơ cả người con trai ạ!
Con trai của bố, con sinh ra khi bố đã 34 tuổi. Trong cái thời đại Hồ Chí Minh mà dọc đường vào thành phố có tấm băng rôn:
- Vẻ vang thay thời đại Hồ Chí Minh Vậy là con của bố được may mắn sinh ra trong một thời đại vẻ vang, mọi biên bản, đơn từ đều có dòng chữ đầy ắp hy vọng:
- Độc lập – Tự Do- Hạnh phúc
Rồi người ta còn tung hô dài dài câu – Xã hội công bằng, dân chủ văn minh

Lịch sử nước ta có nhiều thời đại. Sau này con sẽ được học về thời đại Hùng Vương, thời Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê… Nhưng những thời đại ấy, bố cũng chỉ học được từ sách giáo khoa như con sau này thôi. Vậy bố sẽ kể dần cho con nghe về thời đại mà con đã sinh ra, cũng là thời đại mà bố chứng kiến, sống và làm việc theo hiến pháp thời đại đó. Một thời đại mà nhà nước ta bảo rằng hào hùng, vinh quang và vẻ vang hơm mọi thời đại khác.
Đất nước ta hiện nay có rất nhiều người tốt việc tốt. Học sinh thì học giỏi, cán bộ, công chức cần cù liêm khiết, lãnh đạo sáng suốt…

Hôm mẹ con trở dạ, bố đưa mẹ vào viện Nhi Trung Ương. Cô bác sĩ đeo kính cận chăm sóc mẹ con rất tận tình. Cô ấy là người quen của bạn mẹ con. Bố và mẹ đã gặp cô ấy từ trước để nhờ săn sóc và khám sức khoẻ, theo dõi cho cả hai mẹ con. Bởi vậy cô ấy đã không phải rào đón, thân thiện như người nhà bảo với bố rằng
- Vợ anh tử cung hẹp, phải mổ đấy anh ạ!
Bố không nghĩ gì nhiều. Làm sao mà bố dám tính toán với đứa con trai của bố sắp chào đời tốn bao nhiêu. Bố chỉ hỏi
- Em cần bao nhiêu? Cô ấy bảo:
- Bác sĩ mổ 5 trăm, y tá 200, tiền bệnh viện 500, hộ lý 100.
Bố không nhớ rõ, chỉ nghe cô ấy tổng kết là triệu rưởi. Tiền cược viện phí một triệu thì bệnh viện đã thu ngay từ lúc vào cổng. Cái bác thu tiền ấy thấy bố cuống quýt còn quát:
- Cứ nộp tiền xong đã, đẻ ngay đâu mà lo!
Bố không biết lúc ấy bố quên tiền thì con trai bố có phải sinh ra ở gốc sấu phố Tràng Thi không. Nhưng nhờ ơn Đảng và Bác Hồ, dạo này ai đến viện cũng chuẩn bị tiền nộp trước cả. Bố cũng cầm theo mấy tháng lương cho nên một triệu để lấy tờ giấy đưa hai mẹ con cho cô bạn bác sĩ kia đưa vào trong cũng là chuyện nhỏ.
Bố đưa cho cô bác sĩ ấy hai triệu với lời dặn:
- Em cứ liệu mà lo, thiếu bao nhiêu bảo anh đưa thêm.

Cô ấy rút điện thoại gọi ngay bác sĩ Hưng là người phụ trách phòng mổ. Lúc này thì mẹ con đang ở trong phòng đỡ đẻ, bấy giờ là 6 giờ chiều ngày 28/10/2005. Bác sĩ Hưng đến rút điện thoại gọi bác sĩ Hà trực phòng đỡ đẻ xin được phép mổ cho mẹ con. Nhưng bác sĩ Hà không đồng ý. Nguyên nhân là thế này:
Thường mỗi ca đỡ đẻ, cái luật bất thành văn là trường hợp sinh ở phòng đỡ đẻ, ca đỡ được bồi dưỡng 700. Nếu ca nào khó thì mới chuyển qua phòng mổ. Tiền bồi dưỡng đương nhiên là phòng mổ nhận.
Bố cũng thấy cái khó trong việc này, nên bố đề nghị gặp bác sĩ Hà để xin mổ cho mẹ con theo yêu cầu. Nhưng bác sĩ Hà nhất quyết không gặp, không cho bố cơ hội dúi cái phong bì bẩy lít. Hoá ra bác sĩ Hà tử tế, bác ấy cho rằng mẹ khoẻ, con khoẻ cứ đẻ thường cũng được. Có nghĩa bác ấy quân tử, muốn nhận tiền thì cũng mó tay vào việc chứ nhất quyết chả chịu ăn không?

Đến 3 giờ sáng thì mẹ con vỡ ối, mẹ con quằn quại, nhăn nhó nhìn bố cầu cứu. Bên ngoài bác sĩ Hưng thúc bố nói chuyện với bác sĩ Hà. Nhưng bố thiếu nước quỳ xuống van xin, hai tay cung kính dâng tiền mà bác sĩ Hà kiên quyết không đồng ý. Bác ấy cứ khăng khăng là để đẻ thường.

Đến 6 giờ sáng hết ca của bác sĩ Hưng, thì bác sĩ Hà đồng ý cho mổ. Con trai của bố 3,2 kg, đủ tháng. Siêu âm hàng kỳ đều khoẻ mạnh. Lúc sinh ra người tím ngắt, thở không nổi. Bác sĩ điều trị Trách nói rằng con có thể bị bệnh tim.
Cứ thấy bóng dáng áo blu là bố muốn quỳ lạy vì sợ hãi, bố dúi tiền cho bất cứ ai để van xin.
Bố dựa vào tường khóc, bố nhìn con nằm trong lồng kính thở ô-xy mà bố đứng không nổi. Bố chỉ muốn moi tim mình ra cho con trai bố mạnh khoẻ. Bố ngã quỵ xuống sàn bệnh viện ôm mặt khóc từng cơn. Mọi người đỡ bố dậy, khuyên bố bình tĩnh. Bố lấy hết hơi sức run rẩy lấy điện thoại gọi cho bác Hưng, bác Oanh và các ông bà hai bên nội ngoại cầu cứu.

Lúc sau, cũng nhanh mọi người kéo đến vì đều ở quanh đó. Bác Hưng đỡ bố dậy bảo:
- Thôi mày đừng khóc, tao sẽ làm hết sức mình. Nhưng có gì thì mày cũng phải chấp nhận số phận.
Bác Oanh gọi điện nhờ người sang Khoa Nhi Thuỵ Điển để phòng tình huống chuyển con sang đấy chạy chữa.
Bà Thoa gọi bà Lan là bác sĩ khoa Nhi. Bà Lan dẫn bố vào gặp mọi người trực ca phòng sơ sinh. Nói rằng bố là em họ, mọi người cố giúp đỡ cho cháu. Còn nhiều người nữa đến phòng sơ sinh nhận con là họ hàng. Các bác sĩ trực bảo:
- Em bé này có người nhà khắp bệnh viện!
Họ bảo bố cứ yên tâm, sẽ chụp phim và gửi mẫu xét nghiệm con sang khoa nhi Thuỵ Điển. Sau đó sẽ hội chẩn.
Bố như kẻ mất hồn, bố chạy về chỗ mẹ con nằm. Hai người sản phụ một giường nằm. Những sản phụ vừa qua ca mổ đang oằn mình vì đau đớn, chỉ nghiêng một chút là rơi xuống đất. Bố ngồi xuống tựa cái ngực vào giường làm thành đỡ cho mẹ con khỏi lăn. Bà bác sĩ khoa sản phụ đi qua. Bố hỏi:
- Cô ơi, sao cái giường góc kia còn trống, không cho vợ cháu nằm?
Bà ấy bảo:
- Chỗ ấy có người đặt rồi!
Bố đẩy mẹ con nằm sâu vào trong đuổi theo bà ấy dúi vào túi áo blu rộng hai trăm:
- Cô cho vợ cháu nằm, lúc nào người ta đến cô trả cũng đuợc. Cháu phải chạy đi xem con cháu thế nào, cô ngó giúp vợ cháu một lát.
Bà ấy vẫy tay gọi hai y tá mang xe đến để chuyển mẹ con sang giường trống, lại còn ân cần cúi xuống hỏi gì mẹ con. Bố mới chạy sang khoa sơ sinh bám cửa ngoài nhìn con đang nằm trong lồng kính, dây rợ lằng nhằng với máy móc. Bố lại khóc.
Bố khóc một lát rồi tự nhủ, bố phải gắng hết sức không thể bỏ qua bất cứ điều gì để lo cho con. Bố chạy tìm cô bác sĩ người quen của mẹ. Bố đưa cô ấy một triệu, bảo rằng cứ mỗi ca trực 24 tiếng. Đầu mỗi ca em hãy vào đưa 500. Tuy đã nhờ rồi nhưng em cứ phải đưa họ tiền.
Bố tìm người phụ trách việc xét nghiệm, cô ấy bảo chiều có xe sang Nhi cô ấy đi luôn. Bố đưa cô ấy ba trăm, van xin cô ấy đi tắc xi luôn bây giờ. May cô ấy tử tế cũng nhận lời đi ngay.
Mẹ con gọi điện. Bố chạy về bên mẹ, cố lau hết nước mắt để mẹ con không biết. Mẹ hỏi con mình thế nào. Bố bảo bình thường. Anh phải chạy ra đây một tí, bố chạy vội ra ngoài trước khi nước mắt trằn ra. Bố không thể để cho mẹ con biết trong lúc mẹ con còn đang yếu.
Chiều về có kết quả, con không có bệnh tim gì hết. Chỉ vì mẹ con vỡ ối mấy tiếng mà họ không cho mổ. Cho nên con bị ngạt và viêm phổi.

Con nằm trong lồng kính năm ngày. Hàng ngày bố cầm bình sữa vắt từ vú mẹ ủ trong lòng chạy sang phòng sơ sinh. Mấy hôm ấy trời rất lạnh. Sữa mẹ ra ít, được chút nào bố mang luôn đi chút đó. Cứ thấy bóng dáng áo blu là bố muốn quỳ lạy vì sợ hãi, bố dúi tiền cho bất cứ ai để van xin. Mà bố van xin có thành lời đâu, nghẹn hết, đến từ thứ ba là bố khóc. Mọi người ở đấy đều nhẵn mặt bố cả mấy ca trực.
Trời đổ mưa, bố luôn thủ trong người bình sữa và những cái phong bì chạy đi, chạy lại giữa phòng sản phụ và sơ sinh.

Cuối cùng nhờ ơn Đảng, bác Hồ và tổ tiên phù hộ. Con của bố đã khoẻ mạnh. Hôm bố mang sữa sang, bác sĩ bảo:
- Anh không phải mang, cháu khoẻ rồi, chúng tôi cho về với mẹ bây giờ!
Bố mừng lắm, nỗi mừng lớn hơn bất cứ nỗi mừng nào mà bố trải qua hơn ba mươi năm mà bố đã sống. Bố chạy về báo tin cho mẹ, bố kể lại câu chuyện, bố vừa kể vừa lau nước mắt vì sung sướng.
Xong bố chạy sang để đón con. Một cô y tá đang đẩy cái xe, cô ấy bế con lên định băng qua làn mưa sang bên mẹ. Bố thấy con khóc, bố đập nhẹ vào con nói:
- Nín đi con, bố đây này!
Thế mà con cũng nín ngay, cô y tá hỏi:
- Con anh số bao nhiêu?
Bố đọc số. Cô ấy nhìn trời mưa ngại ngần rồi nói:
- Mưa này vào lấy cái xe nôi cho cháu đi vậy.
Bố lôi ví ra, còn lại tờ một trăm. Bố đút vào túi cô ấy. Con được nằm trong cái xe nôi kính phủ sang bên mẹ. Cô y tá nhìn hồ sơ nói:
- Mẹ phường Hàng Mã, bố phường Hàng Buồm à? Gần nhau nhỉ? Em đưa cái số điện thoại này, nếu có cần người tắm cho cháu thì gọi em nhé.
Con thân yêu, con sinh ra ở một thời đại thật là vẻ vang. Thời đại mang tên vị lãnh tụ kính yêu. Hình ảnh vị lãnh tụ này xuất hiện nhiều nhất, hay gặp nhất trên những đồng tiền chúng ta vẫn hay xử dụng hàng ngày.
Sau này bố sẽ xử dụng nhiều hình ảnh vị lãnh tụ kính yêu này để xin con đi học mẫu giáo. Khi con có mặt lần đầu tiên trên cuộc đời đã gắn liền với vị lãnh tụ anh minh này, khi con bắt đầu đến trường mầm non, tuổi thơ vị lãnh tụ lại cần có mặt. Sau này con đi làm, học nghề hay bất cứ cái gì đó. Con hãy nên nhớ công lao của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã mang lại cho nhân dân ta, một thời đại ấm no, hạnh phúc.

Hãy luôn cầm bên mình những tấm hình vị lãnh tụ cao cả đó bất kể lúc nào, sẽ giúp con rất nhiều trên cuộc đời. Đây là lời dạy đầu tiên của bố. Cái mà bố đúc kết ở cuộc đời. Để con ghi nhớ lời dạy đầu tiên này. Bố đặt tên con là Bùi Minh Huấn…
 
Nguồn: Facebook Người Buôn Gió

Tướng tá QĐND Việt nam mang tên Tầu


Quân Đội Nhân Dân Việt-Nam Mang Tên " Tàu Na Bố " Nè Coi Chơi ...
Bạn đọc Danlambao - Hàng loạt tướng lĩnh và quan chức cấp cao bộ quốc phòng CSVN sử dụng bảng họ tên chữ Tàu tham gia sự kiện ‘Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt-Trung’ lần thứ 2, kéo dài từ hôm 15 đến 18/5/2015.

Dẫn đầu phái đoàn CSVN, bô trưởng Phùng Quang Thanh khẳng định đây là cuộc 'giao lưu lịch sử' khi nắm tay, ôm ấp người đồng nhiệm phía Trung Cộng là Thường Vạn Toàn.

Cuộc ‘giao lưu’ giữa bộ quốc phòng hai chế độ CS diễn ra trong bối cảnh Trung Cộng ngang ngược ban hành lệnh cấm đánh bắt tại Biển Đông, thuộc chủ quyền Việt Nam.



Quân Đội Nhân Dân Việt-Nam Mang Tên " Tàu Na Bố " Nè Coi Chơi ...
Nhìn vào video phóng sự do kênh truyền hình quân đội ghi lại, người ta khó có thể nhận ra sự khác biệt giữa tướng lính Việt Cộng và Tàu Cộng.

Trong các cuộc hội đàm tại biên giới hai nước, hàng loạt quan chức bộ quốc phòng CSVN, từ bộ trưởng Phùng Quang Thanh cho đến thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh đều xuất hiện với một bảng họ tên bằng chữ Tàu xa lạ. 

Họ học theo tấm gương của thiếu tá Hồ Quang, hay đây chính là bước chuẩn bị cho âm mưu sát nhập trong tương lai?
Quân Đội Nhân Dân Việt-Nam Mang Tên " Tàu Na Bố " Nè Coi Chơi ...

Chuyện Côn đảo và Võ Thị Sáu: Nói láo siêu việt

Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán

Nguyễn Quang Lập
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)
Những năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình thường trọ hai nơi, một là nhà Phạm Xuân Nguyên, hai là nhà Phùng Quán. Chỉ hai nơi đó là mình cảm thấy hoàn toàn tự do như ở nhà mình. Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình cũng ái ngại lắm. Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.
Lúc đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm, anh Quán đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo mình ra ngõ, nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói răng rứa anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok liền, vui vẻ theo anh về nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.

Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai tặng, anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lênin chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh chiếc xe đạp này. Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.
Mình không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có đầu có đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên quan đến sự viết của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất nhiên anh bịa, hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần. Cho đến ngày anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85 – 86 chi đó, anh vẫn chưa biết Côn Đảo méo hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra bãi dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân bị án tử hình. Là anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực dân chứ xương người làm sao lót được đường. Chẳng ngờ trong hồi ký của một ông ở tù Côn Đảo về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên, hi hi) khi viết về con đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng con đường lót xương các tù nhân, he he.
Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu (thực ra là bài thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền Phong) anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày bị hành hình, chị đã ngắt một nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên đường ra pháp trường chị vừa đi vừa hát. Anh đâu biết lê-ki-ma là cây gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm. Sau này mới biết lê-ki-ma thực ra là cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy cảm hứng từ bài thơ của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc khi đó bác Toàn cũng không biết cây lê-ki-ma là cây gì): Mùa hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền đất đỏ/ Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng/ Đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở…Chị Sáu đã hy sinh rồi/ Giọng hát vẫn như còn vang dội vào trái tim…Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.
Đến ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời mưa, anh đi đầu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập Lập mày bê chiếc xe đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi, nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng như chiếc xe máy. Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu về rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này anh kiếm được thời viết văn chui đấy, chuyện hay lắm.
Anh kể đâu như năm 69 – 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học cấp I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học muộn. Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy đã bảy, tám giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm, nghĩ bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức. Đồng hồ báo thức Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là cả một món tiền to. Nhưng giá có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị cắt mất, anh đâu dám mơ được phân phối đồng hồ.
Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô, vừa lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lênin. Ngó xuống phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích. Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.
Mới gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư, trống ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin giải thưởng. Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to đầu mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước Xã hội Chủ nghĩa, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.
Một hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ đau. Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em họ vừa cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất! Anh tự véo đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt nhăn như bị, nói anh mần ri chết em rồi. Anh hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về buổi sáng, buổi chiều đã ồn khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả tỉnh. Một ông công nhân ở nơi khỉ ho cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết về Lênin thế mới kinh. Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói râm ran. Các nhà báo kéo nhau về lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá, nửa đêm nhảy tàu ra nhà anh.
Chuyện nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái giải nhất mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị lật tẩy, khéo không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương thì thương cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn giải phân tích cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với đám nhà báo. Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao, nếu lộ ra anh Quán chết thì anh cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.
Được hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái đồng hồ báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó, anh cầm đi rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này rồi cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu. Hỏi thì chú em họ kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn, cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy lên sau gáy, mặt mày xanh như đít nhái.
Rồi cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi hộp. Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến phút chót mọi việc bị lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em họ đẩy chiếc xe đạp đi ra. Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp. Anh theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không biết bao nhiêu lần, chưa lần nào anh sợ như lần này.
Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.
Nguyễn Quang Lập

Những kẻ sát nhân trên thế giới


 

From Stalin to Hitler, the most murderous regimes in the world

UPDATED: 10:58 EST, 7 October 2014
The 20th century witnessed death and slaughter on an unprecedented scale. 
It was the century of the Holocaust and two World Wars; of communist, Nazi, fascist and military dictators who between them killed more than 100 million people.
Scroll down for the leaders themselves, listed in order of the numbers who died as a result of their rule.
The casualties of conflicts involving the U.S., the UK and France in Korea, Algeria, Vietnam, the Gulf, Afghanistan and Iraq are excluded on the grounds that, though many would view these as unjust colonial wars by ‘imperialist’ powers, they weren’t fought by dictators.
Indeed, when the wars proved unpopular or unwinnable, they were brought to an end by the pressure of public opinion.
Mao Zedong: Victims 60 million
Mao Zedong: Victims 60 million
Joseph Stalin: Victims 40 million
Joseph Stalin: Victims 40 million
Adolf Hitler: Victims 30 million
Adolf Hitler: Victims 30 million

1 MAO ZEDONG

China (1949-76) Regime Communist Victims 60 million
China’s so-called ‘Great Helmsman’ was in fact the greatest mass murderer in history. Most of his victims were his fellow Chinese, murdered as ‘landlords’ after the communist takeover, starved in his misnamed ‘Great Leap Forward’ of 1958-61, or killed and tortured in labour camps in the Cultural Revolution of the Sixties. Mao’s rule, with its economic mismanagement and continual political upheavals, also spelled poverty for most of China’s untold millions. The country embraced capitalism long after his death.

JOSEPH STALIN

Soviet Union (1929-53) Regime Communist Victims 40 million
Lenin’s paranoid successor was the runner-up to Mao in the mass-murder stakes. Stalin imposed a deliberate famine on Ukraine, killed millions of the wealthier peasants – or ‘kulaks’ – as he forced them off their land, and purged his own party, shooting thousands and sending millions more to work as slaves and perish in the Gulag.

ADOLF HITLER

Germany (1933-45) Regime Nazi dictatorship Victims 30 million
The horror of Adolf Hitler’s dictatorship lies in the uniqueness of his most notorious crime, the Holocaust, which stands alone in the annals of inhuman cruelty. It was carried out under the cover of World War II, a conflict Hitler pursued with the goal of obtaining ‘Lebensraum’. The war ended up costing millions of lives, leaving Europe devastated and his Third Reich in ruins.
King Leopold II
KING LEOPOLD II
Belgium (1886-1908) 
Regime Colonial empire in Congo 
Victims Eight million enslaved Congolese
Hideki Tojo
HIDEKI TOJO 
Japan (1941-45) 
Regime Military dictatorship 
Victims Five million (Japan’s victims in World War II)
Ismail Enver Pasha
ISMAIL ENVER PASHA 
Ottoman Turkey (1915-20) 
Regime Military dictatorship 
Victims Two million (Armenians, Greeks and Assyrians)
Pol Pot
POL POT 
Cambodia (1975-79) 
Regime Communist (Khmer Rouge) 
Victims At least 1.7 million (political opponents)
Kim Il-Sung
KIM ILSUNG 
North Korea (1948-94)
Regime Communist 
Victims At least 1.6 million (political opponents/civilians through famine)
Mengistu Haile Mariam
MENGISTU HAILE MARIAM 
Ethiopia (1974-78) 
Regime Communist military dictatorship 
Victims 1.5 million (Eritreans/political opponents)
Yakubu Gowon
YAKUBU GOWON 
Nigeria (1967-70) 
Regime Military dictatorship 
Victims One million (Biafrans starved and soldiers killed in civil war)
Jean Kambanda
JEAN KAMBANDA 
Rwanda (1994) 
Regime Tribal dictatorship (Hutu) 
Victims 800,000 (Tutsis)
Saddam Hussein
SADDAM HUSSEIN 
Iraq (1979-2003) 
Regime Ba’ath Party dictatorship 
Victims 600,000 (Shi’ites, Kurds, Kuwaitis, political opponents)
Josip Broz Tito
JOSIP BROZ TITO 
Yugoslavia (1945-80)
Regime Communist 
Victims 570,000 (political opponents)
Sukarno
SUKARNO 
Indonesia (1945-66) 
Regime Nationalist dictatorship 
Victims 500,000 (Communists)
Mullah Omar
MULLAH OMAR 
Afghanistan (1996-2001) 
Regime Islamist dictatorship (Taliban) 
Victims 400,000 (political/religious opponents)
Idi Amin
IDI AMIN 
Uganda (1971-79) 
Regime Personal dictatorship 
Victims 300,000-500,000 (political/personal opponents)
General Yahya Khan
GENERAL YAHYA KHAN 
Pakistan (1970-71) 
Regime Military dictatorship 
Victims 300,000 (Bengalis in East Pakistan)
Benito Mussolini
BENITO MUSSOLINI 
Italy (1922-45) 
Regime Fascist dictatorship
Victims 250,000 (Ethiopians, Libyans, Jews, political opponents)
General Mobutu Sese Seko
GENERAL MOBUTU SESE SEKO 
Zaire/Congo (1965-97) 
Regime Personal dictatorship
Victims 230,000 (political opponents)
Charles Taylor
CHARLES TAYLOR 
Liberia (1989-96)
Regime Personal dictatorship 
Victims 220,000 (political/military opponents and civilians)
Foday Sankoh
FODAY SANKOH 
Sierra Leone (1991-2000) 
Regime Personal dictatorship 
Victims 210,000 (political opponents)
Ho Chi Minh
HO CHI MINH 
North Vietnam (1945-69) 
Regime Communist 
Victims 200,000 (political opponents, South Vietnamese)
Michel Micombero
MICHEL MICOMBERO
Burundi (1966-76) 
Regime Personal dictatorship 
Victims 150,000 (Hutus)
Hassan Al-Turabi
HASSAN ALTURABI 
Sudan (1989-99)
Regime Islamist dictatorship 
Victims 100,000 (political/religious opponents)
Jean-Bedel Bokassa
JEAN-BEDEL BOKASSA 
Central African Republic/Empire (1966-79) 
Regime Personal dictatorship 
Victims 90,000 (political opponents)
Efrain Rigs Montt
EFRAIN RIOS MONTT 
Guatemala (1982-83) 
Regime Military dictatorship 
Victims 70,000 (peasants, political opponents)
Francoise/Jean-Claude Duvalier
FRANCOIS/ JEANCLAUDE DUVALIER 
Haiti (‘Papa Doc’ 1957-71; ‘Baby Doc’ 1971-86)
Regime Personal dictatorship 
Victims 60,000 (political opponents
Rafael Trujillo
RAFAEL TRUJILLO 
Dominican Republic (1930-61) 
Regime Personal dictatorship 
Victims 50,000 (political opponents)
Hissene Habre
HISSENE HABRE 
Chad (1982-90) 
Regime Military dictatorship 
Victims 40,000 (political opponents)
General Francisco Franco
GENERAL FRANCISCO FRANCO 
Spain (1939-75)
Regime Fascist/military dictatorship 
Victims 35,000 (political opponents
Fidel Castro
FIDEL CASTRO 
Cuba (1959-2006) 
Regime Communist 
Victims 30,000 (political opponents)
Hafez/Bashar Al-Assad
HAFEZ/ BASHAR ALASSAD 
Syria (Hafez 1970- 2000; Bashar 2000-) 
Regime Ba’ath Party dictatorship 
Victims 25,000- 30,000 (political/ sectarian opponents
Ayatollah Ruhollah Khomeini
AYATOLLAH RUHOLLAH KHOMEINI 
Iran (1979-1989) 
Regime Islamist dictatorship 
Victims 20,000 (political/religious opponents)
Robert Mugabe
ROBERT MUGABE 
Zimbabwe (1982-) 
Regime Personal dictatorship 
Victims 15,000 (political/tribal opponents)
General Jorge Videla
GENERAL JORGE VIDELA 
Argentina (1976-83) 
Regime Military dictatorship 
Victims 13,000 (left-wing political opponents)
Augusto Pinochet
GENERAL AUGUSTO PINOCHET
Chile (1973-90) 
Regime Military dictatorship 
Victims 3,000 (political opponents)