Monday, December 7, 2015

Các đồ tể của nhân loại trong thế kỷ 20

Share this article

King Leopold II
1) KING LEOPOLD II
Belgium (1886-1908)
Regime Colonial empire in Congo
Victims Eight million enslaved Congolese
Hideki Tojo
2) HIDEKI TOJO
Japan (1941-45)
Regime Military dictatorship
Victims Five million (Japan’s victims in World War II)
Ismail Enver Pasha
3) ISMAIL ENVER PASHA
Ottoman Turkey (1915-20)
Regime Military dictatorship
Victims Two million (Armenians, Greeks and Assyrians)

Pol Pot
4) POL POT
Cambodia (1975-79)
Regime Communist (Khmer Rouge)
Victims At least 1.7 million (political opponents)
Kim Il-Sung
5) KIM ILSUNG
North Korea (1948-94)
Regime Communist
Victims At least 1.6 million (political opponents/civilians through famine)
Mengistu Haile Mariam
6) MENGISTU HAILE MARIAM
Ethiopia (1974-78)
Regime Communist military dictatorship
Victims 1.5 million (Eritreans/political opponents)

Yakubu Gowon
7) YAKUBU GOWON
Nigeria (1967-70)
Regime Military dictatorship
Victims One million (Biafrans starved and soldiers killed in civil war)
Jean Kambanda
8) JEAN KAMBANDA
Rwanda (1994)
Regime Tribal dictatorship (Hutu)
Victims 800,000 (Tutsis)
Saddam Hussein
9) SADDAM HUSSEIN
Iraq (1979-2003)
Regime Ba’ath Party dictatorship
Victims 600,000 (Shi’ites, Kurds, Kuwaitis, political opponents)

Josip Broz Tito
10) JOSIP BROZ TITO
Yugoslavia (1945-80)
Regime Communist
Victims 570,000 (political opponents)
Sukarno
11) SUKARNO
Indonesia (1945-66)
Regime Nationalist dictatorship
Victims 500,000 (Communists)
Mullah Omar
12) MULLAH OMAR
Afghanistan (1996-2001)
Regime Islamist dictatorship (Taliban)
Victims 400,000 (political/religious opponents)

Idi Amin
13) IDI AMIN
Uganda (1971-79)
Regime Personal dictatorship
Victims 300,000-500,000 (political/personal opponents)
General Yahya Khan
14) GENERAL YAHYA KHAN
Pakistan (1970-71)
Regime Military dictatorship
Victims 300,000 (Bengalis in East Pakistan)
Benito Mussolini
15) BENITO MUSSOLINI
Italy (1922-45)
Regime Fascist dictatorship
Victims 250,000 (Ethiopians, Libyans, Jews, political opponents)

General Mobutu Sese Seko
16) GENERAL MOBUTU SESE SEKO
Zaire/Congo (1965-97)
Regime Personal dictatorship
Victims 230,000 (political opponents)
Charles Taylor
17) CHARLES TAYLOR
Liberia (1989-96)
Regime Personal dictatorship
Victims 220,000 (political/military opponents and civilians)
Foday Sankoh
18) FODAY SANKOH
Sierra Leone (1991-2000)
Regime Personal dictatorship
Victims 210,000 (political opponents)

Ho Chi Minh
19) HO CHI MINH
North Vietnam (1945-69)
Regime Communist
Victims 200,000 (political opponents, South Vietnamese)
Michel Micombero
20) MICHEL MICOMBERO
Burundi (1966-76)
Regime Personal dictatorship
Victims 150,000 (Hutus)
Hassan Al-Turabi
21) HASSAN ALTURABI
Sudan (1989-99)
Regime Islamist dictatorship
Victims 100,000 (political/religious opponents)

Jean-Bedel Bokassa
22) JEAN-BEDEL BOKASSA
Central African Republic/Empire (1966-79)
Regime Personal dictatorship
Victims 90,000 (political opponents)
Efrain Rigs Montt
23) EFRAIN RIOS MONTT
Guatemala (1982-83)
Regime Military dictatorship
Victims 70,000 (peasants, political opponents)
Francoise/Jean-Claude Duvalier
24) FRANCOIS/ JEANCLAUDE DUVALIER
Haiti (‘Papa Doc’ 1957-71; ‘Baby Doc’ 1971-86)
Regime Personal dictatorship
Victims 60,000 (political opponents
Rafael Trujillo
25) RAFAEL TRUJILLO
Dominican Republic (1930-61)
Regime Personal dictatorship
Victims 50,000 (political opponents)
Hissene Habre
26) HISSENE HABRE
Chad (1982-90)
Regime Military dictatorship
Victims 40,000 (political opponents)
General Francisco Franco
27) GENERAL FRANCISCO FRANCO
Spain (1939-75)
Regime Fascist/military dictatorship
Victims 35,000 (political opponents

Fidel Castro
28) FIDEL CASTRO
Cuba (1959-2006)
Regime Communist
Victims 30,000 (political opponents)
Hafez/Bashar Al-Assad
29) HAFEZ/ BASHAR ALASSAD
Syria (Hafez 1970- 2000; Bashar 2000-)
Regime Ba’ath Party dictatorship
Victims 25,000- 30,000 (political/ sectarian opponents
Ayatollah Ruhollah Khomeini
30) AYATOLLAH RUHOLLAH KHOMEINI
Iran (1979-1989)
Regime Islamist dictatorship
Victims 20,000 (political/religious opponents)
Robert Mugabe
31) ROBERT MUGABE
Zimbabwe (1982-)
Regime Personal dictatorship
Victims 15,000 (political/tribal opponents)
General Jorge Videla
32) GENERAL JORGE VIDELA
Argentina (1976-83)
Regime Military dictatorship
Victims 13,000 (left-wing political opponents)
Augusto Pinochet
33) GENERAL AUGUSTO PINOCHET
Chile (1973-90)
Regime Military dictatorship
Victims 3,000 (political opponents)

Sunday, December 6, 2015

Cả nước khóc khi bác Hồ chết

https://www.youtube.com/watch?v=ko-zjl8f5a8

Khóc Kim Jong-il cha của Kim Jong-un

Châu Âu, châu Mỹ bị khủng bố bằng bom đạn, thấy vậy mà ít rùng rợn cho bằng dân Bắc Triều Tiên bị khủng bố bằng tinh thần!
Coi clip dân Bắc-Triều khóc Kim Jong-il (cha của Kim Jong-un) nghe lạnh xương sống! y như những tiếng than khóc vọng lên từ địa ngục!
Trong đám đông này ai là người thực sự khóc vì thương tiếc il?
Hay họ đang khóc cho chính số phận nô lệ của chính họ?
Nghe nói có một tướng trong quân đội không chịu khóc cho il, sau đó, ông này bị cột trước nòng đại bác rồi "boom"... đi "tập kết" ra Bắc theo il.
Rất may cho Việt Nam, dù cũng có kẻ khóc ông Hồ, ông Võ, như khóc thua đá banh, nhưng cũng không quá ghê rợn như vầy!
.
..

Friday, December 4, 2015

HKMH Ronald Reagan

https://www.youtube.com/watch?v=Zl4oXuWRMwk

Paris có gì lạ không em? (Ngọc Hạ)

https://www.youtube.com/watch?v=xBYLINyH7Sc&feature=youtu.be

Người bạn đồng minh


    Đọc để thấy người bạn Đồng-Minh
Ném đá dấu tay như thế nào!!!  29-9-2015
   Tôi nhận bài viết của tác-gỉa Bùi-Anh-Trinh vào Sep 14, 2015 nhưng tôi quyết-định giữ đến ngày hôm nay. Có thể bài viết đã được đăng trên online.
H1
   * Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết, Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm cho mất nước! Một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh vác! Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý! Thế nhưng Ông Nguyễn Văn Thiệu đã làm!!!
Ⅰ – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
   Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau!
   Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
   Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người Việt, sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH! “Bỏ Rơi Đồng-Minh” khác với “Phản-Bội Đồng-Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa! Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH! Còn hơn là nhận Phản-Bội VNCH!!!
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
   Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
   Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm!!!
   Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ!!!
   CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ, nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval!
   Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt-Nam trong tư-thế đường-hoàng, và muốn tạo được ấn-tượng như vậy; thì cần phải có một chuyên-gia về ảo-thuật và kịch-nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư-phụ!!! (Trang 75, nguyên-văn: “The United States was obliged to crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn-kịch bỏ rơi Việt-Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973!!!
Ⅲ – Nixon THẤT-HỨA VỚI Liên-Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
   Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ mong chờ.
   Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ chối.
   Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
   Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
   Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ-NỘI CAY ĐẮNG.
   Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
   Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
   Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
   Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát triển kinh tế.
   Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số không (sic).
   Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại!!!
   * (Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN-LIỆU.
   Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt-Nam Cộng-Hòa”. Trong sách có kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không thể chối-cãi là quân-đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên-liệu vào tháng 6 năm 1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
   Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham-mưu của ông đã làm việc ngày đêm để cố -ắng tìm đáp-số cho bài toán viện-trợ quân-sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra một giải-pháp để giải-quyết vấn-đề thì lại phát-sinh một vấn-đề khác mà kết- quả cũng chỉ đưa tới bí lối!!!” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
   Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
   Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế-hoạch về quân-sự thì được, nhưng về mặt chính-trị thì không thể nào thi-hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
   Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện-Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974, nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể lên tiếng thanh minh!!!
   Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn-công Phước-Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng Giáng-Sinh được Tướng Đồng-Văn-Khuyên, Tham-Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham- Mưu, tổ-chức trên lầu của Câu-lạc-Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
   Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc-Phòng Hoa-Kỳ có kế-hoạch với ngân- khoản dự-trù hơn 300 triệu đollar để di-tản sang Hoa-Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ-quan và gia-đình, nhưng thời-gian thì chưa rõ!!!” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
   Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
   Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
   Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
   Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH!!!
Ⅵ – Và TÌNH-HÌNH THỰC-SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
     - Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for the disaster”).
     – Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might not be).
        Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban Mê Thuột.
        Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT-BUỘC của Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu.
   Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong bữa ăn sáng…”
   * “… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
   “Ngay sau khi Phước-Long bị tấn-công, Hoa-Kỳ không có một phản-ứng nào!!!  Một thực-tế gần như hiển-nhiên là Hoa-Kỳ không muốn cuộc-chiến tiếp-tục và biểu-quyết viện-trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra! Đối với Hoa-Kỳ cuộc-chiến Việt-Nam đã kết-thúc!!!” (trang 132).
   Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải-thích vì sao Tổng-Thống Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt-tình tham-gia kế-hoạch của Tướng Thiệu!!!
   Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến-dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng-Thống Thiệu! để cho người ta không oán-hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH!!!  Giờ đây, đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải-oan cho Tổng-Thống Nguyễn-Văn-Thiệu! Thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch-sử!!!

Monday, November 16, 2015

Thư của Bằng Phong Đặng Văn Âu

Thưa Thầy Lê Trọng Quát,
Chúng ta đang sống trong thời đại ma vương quỷ sứ mà theo lời thuật lại của giáo sư Lê Tuyên kể rằng có một vị linh mục ở tại một Nhà Thờ của Espagne từ đầu thập niên 50' cho biết nước Việt Nam ta đang bị trả thù do sự tàn ác của Tổ tiên ta đã tiêu diệt một dân tộc. Chàm
Giáo sư Lê Tuyên hỏi tại sao Ngài biết. Vị linh mục trả lời: "Tuy tôi chưa hề tới Việt Nam, nhưng tôi tu thuộc dòng Thánh Mathew, giống như Ngài Nostra Damus, nên có thể biết chuyện quá khứ và chuyện tương lai." Vi linh mục còn nói: "Ông (Lê Tuyên) sẽ về Việt Nam, rồi lại sẽ phải rời Việt Nam".
Vào đầu tháng 5 năm nay, em có tham dự buổi họp mặt của các anh chị Quốc Học, Huế khóa 55 - 58 tại vùng Quận Cam. Những anh chị ấy chưa gặp mặt em bao giờ (vì họ thuộc lớp trên), nhưng khi có một người bạn giới thiệu em với mọi người, thì hầu hết những anh chị ấy cho biết họ đều đã đọc những bài viết của em. Các anh chị ấy dành cho em cảm tình nồng hậu lắm. Có người còn bảo "Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình". Đặc biệt anh Nguyễn Đức Tâm (nhà văn Ninh Hạ) nhận định rất chính xác về phong cách viết của em ít ai có, vì nhờ ở trong một gia đình có dính dáng đến hai bên Quốc - Cộng. Có lẽ các anh chị QH khá đồng tình với những bài viết của em, sau khi hàn huyên thì họ yêu cầu em ra Salon ngồi nói chuyện Đất Nước.
Em vốn gốc nhà binh, viết những điều mình suy nghĩ về Đất Nước một cách bộc trực, khiến một số người chột dạ. Thực tâm em không muốn làm tổn thương bất cứ ai, những vấn đề em đặt ra là chung cho Đất Nước; chứ không phải em ở Đảng này thì triệt hạ Đảng kia hoặc về phe ai cả. Em viết không phải vì mong được nổi tiếng, mà vì công đạo, sẵn sàng lắng nghe lời chỉ giáo, chứ không ngoan cố hay ngạo mạn như một số người viết khác. Em thường trả lời những thắc mắc một cách lịch sự do bất cứ ai gửi tới.
Em công kích Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh vì em cho rằng ông ta thiếu lương thiện và tự hào về cái quá khứ cộng sản mà đáng ra ông ta phải hối hận. Các anh em dân chủ trong nước viết email phiền hà em như sau: "Những điều anh nói đều đúng hết, nhưng anh nên viết nhẹ nhàng có tính cách thuyết phục hơn để kéo ông ta về với chính nghĩa hơn là đẩy ông ta về phía kia". Em trả lời rằng cụ Vĩnh là một ông già 100 tuổi, chứ không phải là đứa con nít mà tôi phải dỗ dành, ngon ngọt. Ý em muốn những người tranh đấu hãy vì lương tri mà tranh đấu; chứ không cần đợi ai hối thúc mới hành động. Em đâu có lập đảng để mà chiêu dụ ai? Em chỉ mong họ hãy hành động theo lương tri.
Trở lại về chuyện nói với các anh chị Quốc Học ở phòng khác. Em nói có lẽ vận nước mình điêu linh là bởi vì mình bị quả báo do Tổ tiên mình quá ác nên cái chủ nghĩa cộng sản với chủ trương diệt Trí thức lại được những ông trí thức cực kỳ thông minh tài giỏi đi theo phục vụ, khiến cho đám học trò cứ thế mà nhắm mắt đi theo. Lúc bấy giờ anh Võ văn Dật, Giám sát viên trong Giám sát viện VNCH, mới đem câu chuyện của giáo sư Lê Tuyên viết trong tuyển tập Đại học Huế kể.
Từ lâu em đã nghĩ nước mình bị quỷ ám. Đó là con quỷ Cộng sản mới có khả năng làm cho cho con tố cha, vợ tố chồng, anh em tiêu diệt nhau, phản bội nhau. Đạo đức hoàn toàn bị đảo lộn. Người công chính bị miệt thị; đứa lưu manh được suy tôn. Thì cái chuyện do thầy Lê Tuyên kể quá hấp dẫn đối với em. 
Gần đây nhất, tờ báo Người Việt đăng tin và hình ảnh một ông Giám mục Công Giáo đến trao giải thường Hòa Bình cho Nhất Hạnh là điển hình nhất. Nhất Hạnh chính là một con quỷ có tài mê hoặc lòng người. Nhất Hạnh trong thời chiến tranh VN đã lợi dụng chiếc áo nhà tu Phật giáo đi khắp nơi trên thế giới cổ súy hòa binh, chống chiến tranh, nhưng thực chất là tay sai của cộng sản, vì anh ta chỉ đòi phía tự vệ buông súng mà không đề cập gì đến quân xâm lược phải rút về Bắc. Anh ta che dấu tội ác của cộng sản ở Miền Bắc, tội ác của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam; nhưng tố cáo Miền Nam gieo tội ác.
Năm 2001, nước Mỹ bị nạn khủng bố Hồi Giáo chết hàng ngàn người vô tội, thì cái anh chàng Nhất Hạnh này dùng tiền của khách thập phương để đăng trên tờ báo nổi tiếng New York Times của Mỹ cho rằng nước Mỹ bị quả báo vì trong thời kỳ chiến tranh VN, Mỹ đã dội bom xuống tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre) làm chết 200 ngàn thường dân. Thử hỏi dân Kiến Hòa được bao trăm ngàn người, mà có đến 200 ngàn người chết vì bom Mỹ? Trong khi toàn dân Mỹ đang để tang. Chỉ có quỷ mới reo hò trước cái chết của nạn nhân vô tội mà thôi!
Thưa Thầy,
Em là một Phật tử, đoàn sinh Phật tử từ nhỏ, đến nay thờ Phật trong nhà, ảnh Phật được đặt ở vị trí cao nhất, thường xuyên thắp hương tụng niệm (chứ không phải là Công Giáo báng bổ người tu hành). Em viết thư trách Ban biên tập báo Người Việt đăng tin Nhất Hạnh lãnh giải Hòa Bình một cách trân trọng mà không nói cho độc giả biết Nhất Hạnh là con người thế nào, thì người làm công tác truyền thông không đúng với lương tâm chức nghiệp. BBT Người Việt là những người em quen biết, nhưng họ im lặng hoàn toàn trước sự lên tiếng của em. Em không hiểu họ khinh độc giả, hay họ có ý đồ phụng sự CÁI ÁC.
Lâu nay em thường viết bài nêu lên việc làm khuất tất, lừa đảo của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, gửi cho các tờ báo nổi tiếng trong Cộng Đồng, nhưng không báo nào dám đăng. Chỉ có một số trang mạng hoặc blog đăng thôi. Họ bảo chuyện Mặt Trận đã cũ để bào chữa cho cái hèn của họ, chỉ biết làm báo để sinh sống giống như con buôn; chứ không có một tí ti lý tưởng tranh đấu cho Sự Thật. 
Hôm qua, đài truyền hình Mỹ chiếu phóng sự của hai ký giả về tội ác của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, chẳng hiểu những nhà báo Chống Cộng, tranh đấu quyền tự do ngôn luận có cảm thấy xấu hổ khi họ đã im lặng trước cái chết của 5 nhà báo đồng hương dám công khai tố cáo sự bịp bợm của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh. Xin lỗi quý nhà báo tôi quen biết. Nếu tôi nói sai, xin quý anh lên tiếng.
Thưa Thầy,
Cuộc đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ của chúng ta là cuộc đấu tranh giữa Sự Thật và sự Dối Trá, giữa Thiện và Ác, giữa liêm sỉ và lưu manh, giữa lương tri và vô cảm. Thực tế cho em thấy công cuộc đấu tranh của chúng ta sẽ không đi tới đâu vì người thành tâm thì ít, mà người thờ ơ vô trách nhiệm với quê hương, với đồng bào thì nhiều.
Mặc dầu nhận định về thời thế có vẻ bi quan, nhưng em sẽ theo đuổi tới cùng chống lại sự dối trá, dù bị cô đơn, nhưng nhất định không sống bầy đàn với kẻ tìm hư danh, lợi nhuận trên nỗi đau khổ của giống nòi.
Em biết nhiều người không ưa lời nói thẳng của em, nhưng em rất tự tin, vì nói lời công đạo.
Bài thơ Lời Mẹ Dặn của thi sĩ Phùng Quán là phương châm sống của em. 
"Bút giấy tôi ai cướp giật đi 
Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá. 
Mấy ngày nay, nhiều buổi lễ tưởng niệm Tổng thống Ngô Đình Diệm được trân trọng, kính cẩn xảy ra trên thế giới. Em cho rằng hành động tưởng niệm người yêu nước, người có công với nước là đúng, là cách lấy gương tiền nhân làm đích để thể hiện trong cuộc đời thì mới đưa Đất Nước và Dân Tộc thành một nước văn minh, có văn hóa. Do đó, chúng ta phải cương quyết diệt trừ CÁI ÁC, và tuyên dương CÁI THIỆN thì mới mong chiến thắng Cộng sản được.
Tưởng niệm Tổng thống Ngô Đình Diệm không phải chỉ là hình thức, mà bản thân phải sống chết với câu trăng trối của Người: Ta tiến, các Ngươi tiến theo ta. Ta lùi, các Ngươi hãy giết ta. Ta chết (vì yêu tinh), hãy trả thù cho ta.". Phải diệt loài yêu tinh, phản phúc mới diệt được con quỷ cộng sản.
 
Kính chúc Thầy dồi dào sức khỏe. 
BP ĐVA



Tuesday, November 3, 2015

Quyết không nô lệ Tầu

Mời nghe:
https://youtu.be/2rosjuO7C9c

Highlight link
Right Click
Open link

Tuesday, October 20, 2015

Chúng tôi không là Việt Kiều

Chúng tôi không là Việt Kiều


Ts Nguyễn Đình Thắng Nguồn: Mạch Sống 2015-10-20

Năm ngoái, một cô du sinh Việt Nam theo học chương trình tiến sĩ ở Hoa Kỳ phỏng vấn tôi cho luận án của cô ấy với đề tài: Cách nào để chính quyền Việt Nam đến với Việt kiều ở Mỹ.
Trước hết hãy ngưng gọi chúng tôi là Việt kiều,” tôi trả lời.
Thấy cô ấy lúng túng, tôi giải thích: Chúng tôi là công dân Mỹ gốc Việt, không phải công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.”
Chính quyền Việt Nam muốn xem người Việt ở hải ngoại là công dân Việt mang “hộ chiếu” nước ngoài.
Cứ xem thái độ của Ông Chủ Tịch Nước Trương Tấn Sang của họ thì rõ. Khi gặp Tổng Thống Mỹ Barack Obama ở Toà Bạch Ốc hồi tháng 7 năm ngoái, Ông Sang cảm ơn chính phủ Mỹ đã chăm lo cho các người Việt ở Hoa Kỳ. Đây là lời cám ơn không đúng cương vị. Chính phủ Mỹ lo cho dân Mỹ là việc đương nhiên; hà cớ gì Ông Sang cảm ơn nếu không là muốn nhận vơ chúng tôi là dân của ông ấy?
Nhận vơ như vậy không ổn, vì nhiều lý do.



Những người không còn, hoặc chưa bao giờ mang hộ chiếu CHXHCN VN liệu có phải là Việt Kiều?
Trước hết, rất nhiều người chưa hề một ngày là công dân của nhà nước cộng sản Việt Nam: những người ngoài Bắc di cư vào Nam trước khi đảng cộng sản lập ra Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và những người trong Nam bỏ nước ra đi trước khi đảng cộng sản ấy xâm chiếm miền Nam.
Kế đến là những người bỏ nước đi tị nạn. Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc, tị nạn có nghĩa từ bỏ sự bảo vệ của chế độ cầm quyền ở quốc gia nguyên quán. Theo nguyên tắc này, khi chúng ta đang xin hay còn mang quy chế tị nạn mà đặt chân về Việt Nam, dù chỉ để thăm gia đình, thì xem như tự đặt mình trở lại dưới sự bảo vệ của chế độ cầm quyền và sẽ tự động mất tư cách tị nạn. Pháp áp dụng đúng nguyên tắc này trong khi một số quốc gia khác thì nhân nhượng hơn.
Dù không thuộc các thành phần trên, một khi giơ tay tuyên thệ nhập quốc tịch Hoa Kỳ, mỗi người trong chúng tôi đã chính thức từ bỏ quốc tịch Việt Nam. Trước luật pháp Hoa Kỳ, chúng tôi là công dân Mỹ chứ không là công dân của Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Cô sinh viên tiến sĩ xem chừng hiểu ra câu trả lời: “Chúng tôi không là Việt kiều. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt,.”
Tôi giải thích thêm: Cái gốc Việt ấy cho phép chúng tôi lên tiếng về các vi phạm nhân quyền và một số vấn đế khác nữa ở Việt Nam. Chúng tôi có thân nhân bị đàn áp. Chúng tôi có tài sản bị cưỡng chiếm. Đó là những vấn đề quyền lợi của công dân Mỹ, khi bị xâm phạm thì chính quyền Mỹ có nhiệm vụ can thiệp. Hơn nữa, chúng tôi có sự hiểu biết sâu sắc về hiện tình xã hội Việt Nam để giúp cho sự can thiệp ấy đạt hiệu quả.”
Nói đi thì cũng phải nói lại. Khi nhà nước cộng sản Việt Nam nhận vơ thì lỗi của họ chỉ có phân nửa. Phân nửa còn lại là lỗi của chúng ta.
Gần đây, cộng đồng Việt ở vùng Hoa Thịnh Đốn xôn xao về cuộc phỏng vấn video của một người Việt bị chặn ở phi trường, không được nhập cảnh, khi về thăm nhà ở Việt Nam. Cuộc tranh luận đã bỏ sót một yếu tố quan trọng: Cả hai phía của cuộc tranh luận đứng trên cương vị Việt kiều hay trên cương vị công dân Mỹ?
Khi công dân Mỹ bị gây khó dễ ở phi trường, thì người ấy dứt khoát đòi liên lạc với toà lãnh sự Mỹ ở Việt Nam; nếu bị công an câu lưu “làm việc” thì người ấy tuyệt nhiên không hợp tác cho đến khi đã nói chuyện được với toà lãnh sự Mỹ; nếu bị tống tiền, chèn ép bởi giới chức chính quyền Việt Nam thì cũng báo ngay cho toà lãnh sự Mỹ. Khi về lại Hoa Kỳ thì nạn nhân phải báo động ngay với Bộ Ngoại Giao.
Chính quyền Mỹ có nhiệm vụ bảo vệ công dân Mỹ. Khi nhận được nhiều báo cáo từ các công dân Mỹ bị sách nhiễu, thì chính quyền Mỹ sẽ phải đặt vấn đề với phía Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam có dám đối xử tệ với những công dân Mỹ khác đâu, mà chỉ sách nhiễu người Mỹ gốc Việt. Chẳng qua chúng ta cho phép họ làm vậy. Lỗi ấy là của chúng ta.
Thành ra, muốn khẳng định “chúng tôi không là Việt kiều” với nhà nước Việt Nam thì trước hết chúng ta phải tự nhủ và nhắc nhở lẫn nhau: “Chúng ta không là Việt kiều”. Khi người người trong chúng ta ý thức điều này và hành xử đúng cương vị thìnhà nước Việt Nam sẽ phải thay đổi theo. Tôi tin là vậy.
Ghi chú: Dưới đây là một số hướng dẫn để công dân Mỹ chuẩn bị đề phòng trở ngại khi ở Việt Nam. Nguồn: Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. 
170 Ngoc Khanh
Ba Dinh District
Hanoi, Vietnam
Telephone: (84-4) 3850-5000
Emergency Telephone: (84-4) 3850-5000 or (04) 3850-5000/3850-5105
Fax: (84-4) 3850-5010
U.S. Consulate General in Ho Chi Minh City
4 Le Duan, District 1
Ho Chi Minh City, Vietnam
Telephone: (84-8) 3520-4200
Emergency Telephone: (84-8) 3520-4200
Fax: (84-8) 3520-4244
Smart Traveler Enrollment Program (STEP)