Wednesday, April 23, 2014

Việt Kiều còn hay không còn lấn cấn?

Thư độc giả: Việt Kiều còn lấn cấn



Mấy hôm trước tình cờ đọc qua lời phát biểu của ông Dương Trung Quốc: ”Tôi không nghĩ kiều bào còn lấn cấn nhiều về chế độ chính trị… “, trong bối cảnh nhà nước đang ra rả kêu gọi “hòa hợp dân tộc”.
Đọc xong câu phát biểu quả quyết ấy, lòng tôi vẫn có gì rất lấn cấn…
Tôi không thuộc tàn dư chế độ cũ, trái lại gia đình thuộc tầng lớp trí thức được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước. Bản thân tôi lớn lên dưới mái trường XHCN, đã được nhồi nhét kỹ lưỡng đạo đức XHCN, đạo đức người CS, lịch sử chói lòa của dân tộc, cuộc chiến hào hùng chống Pháp, chống Mỹ cứu nước… Tôi cũng bị học thuộc nằm lòng những nhân vật anh hùng có thật và cả không có thật trong lịch sử VN.
Chỉ có điều khi trí não của tôi bắt đầu biết tư duy độc lập thì cũng là lúc tôi bắt đầu tự hỏi mình: Sao một đất nước tươi đẹp với lịch sử hào hùng, những nhà lãnh đạo tuyệt vời gần như thần thánh lại có hàng vạn, hàng trăm ngàn người dân ào ạt sống chết bỏ quê hương mà đi như vậy? Thế rồi tôi bắt đầu ngờ ngợ nhìn lại chung quanh mình…Thật khủng hoảng khi mỗi ngày vào lớp, những chiếc bàn, ghế trống rỗng, bạn bè cứ thưa thớt dần, thầy cô giáo cũng từ từ biến mất!…Chúng tôi thì thầm với nhau, chúng tôi buồn ngơ ngẩn vì không được nói lời chia tay. Làm sao cắt nghĩa được những đứa bạn học hàng ngày túm tụm chơi đùa, học hành cùng nhau, rồi bỗng dưng biến mất không một lời báo trước? Những cuộc chạy trốn thầm lặng mà quyết liệt những năm tháng đó vẫn ám ảnh tôi tới tận bây giờ.
Trí óc non nớt của tôi không ngừng đặt những dấu hỏi. Có đôi lúc về nhà hỏi bố mẹ thì chỉ nhận được những cái lắc đầu chán ngán của mẹ, tiếng thở dài và lời đáp bâng quơ của bố : – Đất nước thế này thì không bỏ đi mới là lạ!
Chẳng hiểu gì hơn, tôi bèn mở báo chí ra đọc thì chỉ thấy toàn những tin tức đại loại như: Toàn dân toàn quân quyết tâm thi đua lập chiến công mừng đại hội Đảng, mừng sinh nhật Bác, mừng kỷ niệm chiến thắng v…v…
Hoặc Bộ A, bộ B đã đạt chỉ tiêu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao…
Toàn những tin tức tốt đẹp, rặt một luận điệu như nhau!
Không một tờ báo nào, không một ai giải thích cho tôi tại sao người VN từ Sài Gòn, Hà Nội tới tận những vùng đèo heo hút gió bấy giờ đều rùng rùng bỏ cha bỏ mẹ, bỏ nhà bỏ cửa, bỏ ruộng vườn để chạy trốn đất nước của mình. Có lần tò mò không chịu nổi, tôi bèn hỏi cô giáo chủ nhiệm lớp. Cô dạy văn, tôi nhớ mãi giọng cô đều đều khi giảng cho chúng tôi những bài thơ của Tố Hữu, và những bài thơ sặc mùi máu lửa cách mạng khác. Khi tôi hỏi cô tại sao ai cũng đi vượt biên hoặc tìm cách đi bảo lãnh, có phải người ta sợ CS phải không cô? Thì cô tái mặt lấm lét nhìn quanh, rồi bảo nhỏ với tôi : Em không được hỏi thế nữa nghe chưa? Hỏi như vậy là vi phạm kỷ luật.”
Sau đó chừng vài tháng, cô cũng biến mất, chúng tôi tới tìm thì hàng xóm bảo cô đi vượt biên rồi, nhà đã bị tịch thu. Một lần nữa chúng tôi lại ngơ ngác!
Chúng tôi, những đứa còn lại tiếp tục đi học với hàng ngàn hàng vạn câu hỏi trong đầu, với nỗi thắc thỏm không biết bao giờ đứa bạn ngồi bên cạnh lại biến mất. Rồi tôi cũng hiểu ra rằng học sinh chúng tôi không có quyền hỏi, không có quyền thắc mắc. Chúng tôi chỉ được quyền học những gì ghi trong chương trình giáo khoa. Dù là những điều vô lý nhất, những điều không có thật…. Các thầy cô giáo vẫn lên lớp, giờ Pháp văn cô bắt chúng tôi dịch ra tiếng Việt những bài văn ca tụng mái trường XHCN, sự độc ác, đời sống nghèo khổ, bất công ở XH tư bản, nơi đó trẻ em nghèo không được đi học. Cô giáo dạy Pháp văn ( một nữ tu, và cũng đã từng du học ở Châu Âu ) lúc giảng tới đoạn này, đã cau mày, và im lặng vài giây, có lẽ cô áy náy biết mình đang bắt học sinh học những điều bịa đặt!
Thế rồi cũng đến lúc tôi bỏ xứ mà đi, vì thuộc vào diện được ưu đãi nên tôi dễ dàng xin qua Châu Âu du học.
Năm đầu bên trời Âu, tôi vẫn mang trong người một tấm lòng đầy nhiệt huyết, một niềm kiêu hãnh vời vợi của dòng máu VN, dân tộc đã từng đánh thắng Tàu, Nhật, Pháp, Mỹ. Nhưng rồi ngoài cái niềm kiêu hãnh suông ấy, tôi nhận ra rắng mình chẳng có một tí vốn tri thức nào. Tất cả chỉ là những giáo điều học vẹt. Ngay cả lịch sử VN, tôi cũng rất mù mờ. Thế hệ chúng tôi chỉ được học một thứ lịch sử đã bị bóp méo, bẻ cong nhằm ca tụng và thần thánh hóa Đảng và những lãnh đạo Đảng. Qua sách vở,báo chí nước ngoài tôi mới biết tới vết nhơ lịch sử như Cải Cách ruộng đất, Mậu Thân, những góc nhìn đa khía cạnh của cuộc chiến hai miền Nam Bắc, ai thật sự vi phạm hiệp định Paris v..v….
Câu hỏi cay đắng nhất của tôi là tại sao tôi phải học lịch sử của nước mình qua những thông tin lượm lặt ở nước ngoài? Tại sao và tại sao?
Tại sao những chính sách sai lầm như: Cải Cách ruộng đất, đày đi cải tạo hàng trăm ngàn người lính chế độ cũ , đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế mới, đổi tiền, lại không bao giờ được chính quyền CS công khai đem ra mổ xẻ rút kinh nghiệm? Tại sao lại ỉm đi và thay vào đó là những khẩu hiệu được gào lên từ năm này qua tháng nọ: Đảng CS VN vinh quang dẫn dắt toàn dân đi từ thằng lơi này tới thắng lợi khác? Tại sao và tại sao???
Tôi đi tìm gặp lại những người bạn, những thầy cô năm xưa. Từ khắp các nơi chúng tôi tìm về họp mặt. Giờ đây chúng tôi không phải e dè sợ sệt, nghi kỵ nhau nữa. Chúng tôi có thể nói với nhau tất cả những điều muốn nói.
Cô lớp trưởng năm xưa bây giờ đã thành một doanh nhân thành đạt cười bảo chúng tôi:
Nếu năm xưa, không đi vượt biên thì giờ chắc đang quét rác!
Họ lần lượt kể cho tôi nghe lí do chạy trốn CS của họ. Thời gian đã làm mờ nhạt những ký ức đau đớn. Nhưng phải sống trong hoàn cảnh lúc ấy mới biết cái chết cận kề như thế nào, nguy hiểm rình rập từng người thế nào, nỗi đau kẻ ở người đi to lớn thế nào. Tất cả đều có một câu kết luận chung: Họ bỏ đi ngày ấy chỉ vì không còn sự lựa chọn nào khác! Qua những câu chuyện kể, lúc ấy tôi mới hiểu ra người ta bỏ chạy, sẳn sàng liều mạng, một sống hai chết, tự do hay là tù tội, kẻ liều mình đi trước phó mặc cho biển cả, cho sự run rủi của trời đất, để có cơ hội bảo lãnh kẻ đi sau. Những gia đình tan tác, những cuộc chia lìa bi thảm, chỉ vì chế độ CS quá hà khắc, quá nghèo đói. Vâng người ta sợ! Phải nói là sợ CS còn hơn sợ cái chết mất xác ngoài khơi. Tôi cũng gặp lại rất nhiều thầy cô, hơn hai mươi năm sau tôi lại hỏi cô giáo cũ của mình câu hỏi đã từng nung nấu tôi những ngày niên thiếu: Cô ơi ngày ấy cô dạy chúng em về cuộc sống tươi đẹp trong đất nước XHCN, thế cô có tin không ? Cô trả lời rằng cô không tin, cô chưa bao giờ tin vào những điều cô dạy chúng tôi dưới mái trường XHCN.
Đau lòng thay cho thế hệ chúng tôi đã buộc phải học những điều mà cả thầy lẫn trò đều biết là dối trá!
Ô. Dương Trung Quốc lập luận rằng kiều bào không còn lấn cấn nữa về chính trị!
Thưa ông chúng tôi vẫn còn lấn cấn, rất lấn cấn là khác. Ở hải ngoại hiện giờ có hai nhóm: một nhóm chống cộng cực đoan, dị ứng tất cả cái gì liên quan tới hai chữ CS và HCM. Tôi không muốn bàn nhiều về họ, tuy hiểu và thông cảm cho mối hận thù sâu sắc dẫn tới sự mù quáng của họ. Phần lớn đó là những người bị lừa mang quần áo đi học tập một tuần, sau đó bị bắt đi đày hàng năm dài trong những vùng rừng thiêng nước độc, sinh hoạt ăn uống còn kham khổ hơn cả một con chó, ngay cả chữ tù đày cũng bị bẻ cong để gọi là Học Tập. Đó là những gia đình bị CQ một ngày nọ tới xúc đi kinh tế mới, tịch biên nhà cửa của họ để chia chác cho cán bộ. Đó là hàng vạn con người miền Nam , một sáng đẹp trời bị liệt vào thành phần tư sản và công an ngang nhiên đến tận nhà vơ vét tất cả của cải, vàng bạc. Họ căm thù CQCS vô cùng! Họ càng phẫn hận hơn khi thấy những kẻ khi xưa không ngừng rêu rao chửi bới họ là ăn bơ thừa sữa cặn đế quốc Mỹ nay lại tìm mọi cách lũng đoạn, ăn bớt ăn xén công quỹ quốc gia, để có tiền cho con cái, dòng họ qua Mỹ, cái xứ tư bản xấu xa mà sách giáo khoa VN năm nào đã nói là trẻ em nghèo không được đi học. Những kẻ khi xưa liệt họ vào thành phần tư sản để có cớ cướp bóc tài sản của họ, nay lại giàu có hơn họ hàng ngàn lần, mà sự giàu có lại tới từ tham nhũng, đám người năm xưa đánh tư sản nay nghiễm nhiên trở thành tư sản đỏ mà không sợ ai trừng trị.
Nếu nhà nước thật lòng muốn xóa bỏ hận thù, muốn hàn gắn những vết thương sâu hoắm thì hãy ngừng ngay việc kêu gào hòa hợp bằng miệng. Việc giảm bớt thủ tục nhiêu khê cho việt kiều về thăm nhà, những cởi mở cỏn con làm sao hàn gắn được hết những vết thương lỡ loét, những tội lỗi tày đình của quá khứ. Muốn xóa bỏ hận thù với tầng lớp VK chống cộng này, CQ còn phải nổ lực nhiều hơn nữa. Hãy nói thẳng và nhìn lại lịch sử. Hãy thẳng thắn nhận lỗi đã giam tù không xét xử hàng trăm ngàn người chế độ cũ, phân biệt đối xử con cái họ. Hãy cho du nhập báo chí, sách vở nói về cuộc chiến Nam Bắc với những cái nhìn đa chiều, những quan điểm của anh lính bộ đội và cả anh lính CH. CQCS không thể chỉ kêu gào hòa hợp trong khi chỉ áp đạt lý luận của mình lên quá khứ, vẫn bóp méo lịch sử. Tất cả những ý kiến trái chiều đều bị chụp mũ là phản cách mạng. Hòa hợp không có nghĩa là kẻ chiến bại phải im mồm, kẻ chiến thắng mới được quyền độc diễn và độc thoại.
Hãy cùng nhau nhìn nhận những sai sót hôm qua để chữa lành những vết thương thù hận hôm nay.
Ở đây tôi chỉ muốn đề cập một cách sơ xài về những VK chống cộng cực đoan, những con người còn mang nặng nỗi hận thù rất là chính đáng. Tầng lớp mà tôi muốn nói tới là những người Việt kiều lúc nào cũng hướng về quê hương, yêu nước và muốn cống hiến rất nhiều cho quê mẹ. Họ rất đông đảo, ở khắp năm châu, bốn bể, có tri thức cao, có tấm lòng, rất nhiều trong số ấy đã được đào tạo tại những môi trường tốt nhất. Thử nghĩ nếu thu hút được sự đóng góp của họ thì cơ hội cho VN vươn ra thế giới sẽ nằm trong tầm tay. Nhưng…cũng nên tự hỏi tại sao hòa bình hơn 35 năm rồi, mà lực lượng bà con về giúp đỡ quê nhà lại èo uột thế? Lèo tèo vài ba tổ chức giúp VN về khoa học kỹ thuật , có thấm tháp gì so với hàng triệu kiều bào tại nước ngoài?
Tại sao tới giờ đóng góp của họ chỉ giới hạn trong việc gởi tiền cho thân nhân, thành lập các hội nhóm đoàn thể riêng lẽ làm từ thiện?
Ông Dương Trung Quốc và các ông lãnh đạo có hiểu vì sao không? Tôi nghĩ các ông hiểu, cũng như mọi người đều hiểu tại sao, chỉ có điều phía các ông không ai nhìn thẳng vào vấn đề, mà thay vào đó chỉ biết kêu gào và kêu gào.
Thưa là vì nhóm việt kiều này tuy họ không mang lòng hận thù sâu sắc với CQ CS, nhưng họ chán và khinh bỉ ( xin lỗi vì dùng từ xác đáng ) chế độ chính trị tham nhũng, quan liêu, và ngu dốt đang thống trị tại VN.
Xin thưa họ hoàn toàn không có lòng tin vào bộ máy CQ hiện nay tại VN.
Đối với họ, CQ CS đồng nghĩa với tráo trở, khôn vặt, độc tài và tham lam vô tận.
Khi nói về VN, hiện tình đất nước, họ thường thở dài và lắc đầu nguây nguẩy, buông những câu đại loại : Ai mà tin nổi tụi nó?
Hay : Dại gì mà đầu tư ở VN! Tụi nó muốn cướp là cướp! Toàn là luật rừng!
Hoặc: Thôi, làm ăn ở VN nhức đầu lắm, không đút lót không làm gì được đâu!
Đó là những gì chúng tôi vẫn nói với nhau khi bàn về chế độ chính trị và môi trường làm việc tại VN.
Ông chú tôi, VK Pháp, từng được huân chương kháng chiến, đã từng đưa đón các ông lớn CS VN qua Paris ký kết các hiệp định tại Pháp, lúc về hưu ky ca ky cóp được ít tiền tiết kiệm, cộng thêm đám sinh viên Pháp cũng hùn lại trao cho ông một món tiền. Ông hồ hởi, phấn khởi đem về VN, tính thực hiện giấc mơ cuối đời của mình: xây một ngôi trường tình nghĩa tại cái làng nơi ông sinh ra. Ba tháng sau ông trở qua, mặt mày tiu nghỉu, tôi hỏi và được ông trả lời rằng CQ địa phương đòi ông xùy tiền thì mới cho xây. Cuối cùng ông quyết định mang tiền về trả lại cho sinh viên Pháp, vì thật lòng không biết cắt nghĩa làm sao với họ về khoản tiền bôi trơn ấy! Tôi vừa thương hại lại vừa buồn cười ông là CS lão thành mà còn ngây thơ: Ở VN không bôi trơn thì làm gì cỗ máy chạy?
Chúng tôi luôn nhìn về nước nhà để rồi càng nhìn càng…chán ngán, càng bàng hoàng!
Sống và được giáo dục tại những nước mà luật pháp nghiêm minh, bình đẳng, tự do ngôn luận, tự do phản biện, đại đa số VK không chấp nhận và bất mãn về thể chế chính trị trong nước. Những ý kiến đóng góp của chúng tôi về sự cải tổ xã hội, giáo dục đều như nước đổ đầu vịt. Ngay cả các lãnh tụ thế giới qua VN hội họp, thì những phần phát biểu nhạy cảm đều bị báo Đảng cắt xén thảm thương huống chi những góp ý của chúng tôi?
Các việt kiều về nước đầu tư, thử hỏi có ai không bị thuế má hoạch họe để phải xì tiền ra? Thử hỏi có ai không chung chi mà yển ổn làm việc?Thử hỏi ai không bị guồng máy hành chính vật cho tơi tả?
Nền giáo dục băng hoại, trộm cướp tràn lan, nạn tham nhũng hoành hành từ làng quê heo hút tới bản doanh trung ương. Nạn bằng cấp giả, nạn chạy chức chạy quyền. Càng làm chức cao càng vô liêm sĩ, không biết từ chức. Không tự do báo chí, văn học. Tiền cứu trợ dân nghèo cũng bị xà xẻo, hệ thống giao thông bát nháo, dự án công cộng nào cũng bị cắt xén, các quan lớn nhỏ thi nhau ăn vô tội vạ trên quê hương kiệt quệ, nợ nần ngập đầu. Những trí thức phản biện đều bị nhốt giam, quy chụp cái mũ phản động. Vài năm gần đây để đánh lừa dư luận lại dùng quái chiêu: “Quần chúng tự phát ức chế” để thẳng tay đàn áp, đánh đập nhân dân bất mãn. Những vấn nạn đó làm việt kiều yêu nước đau xót và làm kiệt quệ lòng tin của họ, dẫn tới việc bất hơp tác, thờ ơ với lời kêu gọi của CQ. Thử hỏi nếu Việt kiều ồ ạt kéo về nước làm việc,rồi lập hội lập nhóm, biểu tình họ có bị khép vào tội phản động không? Trong khi điều đó lại hết sức bình thường tại nước ngoài? Hay CQ chỉ muốn Việt kiều cũng ngoan ngoan và dễ dạy như người dân trong nước, lâu lâu cho ăn cái bánh vẽ là hài lòng trùm chăn, bịt tai bịt mắt trước mọi bất công của xã hội?
Ngay bản thân tôi, nhớ lại hơn hai mươi năm trước, tôi đau đớn khi khám phá ra mình chỉ học những điều dối trá ở nhà trường. Hai mươi năm sau quay lại vẫn không có gì thay đổi! Cả một xã hội nói dối để sống, để làm việc, để được yên thân, để kiếm chác!
Ngoài đường vẫn giăng đầy những khẩu hiệu sáo rỗng. Càng nhiều khẩu hiệu đạo đức càng suy đồi, người ta càng chán ghét.
Tóm lại qua kinh nghiệm bản thân tôi nghĩ con đường hòa hợp dân tộc là con đường rất nhiều chướng ngại vật. Việc ra sức kêu gọi bằng mồm các việt kiều đóng góp xây dựng cho nước nhà là một điều khó thành hiện thực lúc này.
Chừng nào cơ chế chính trị trong nước thay đổi thì họa may. Chừng nào hai chữ hòa hợp không mang tính áp chế của phe chiến thắng thì mới nói tới chuyện cởi bỏ hận thù , hàn gắn dân tộc. Chừng nào những sai lầm chết người trong lịch sử không còn bị ém nhẹm, bóp méo, mà được công khai đem ra mổ xẻ trước bàn dân thiên hạ thì mọi người mới sẵn lòng ngồi lại với nhau, hàn gắn trên những đổ nát. Chừng nào?
30/01/2012
Nguyên Dung gửi tới
© Đàn Chim Việt

Sunday, April 13, 2014

KẾ SÁCH TUYỆT DIỆU CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM

KẾ SÁCH TUYỆT DIỆU CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM: TRỤC XUẤT NGƯỜI PHẢN KHÁNG.
Chu Tất Tiến.

Aleksandr Solzhenitsyn, nhà văn đoạt giải Nobel năm 1970, tác giả của nhiều cuốn sách lẫy lừng như “Một ngày trong đời của Ivan Denisovich” (One Day in the Life of Ivan Denisovich) và “Quần Đảo Ngục Tù” (The Gulag Archipelago) đã là một nạn nhân của chính sách độc tài Sô Viết. Ông bị tù 8 năm về việc viết văn chống lại chính sách diệt chủng của Liên Xô. Tháng 3 năm 1953, sau khi mãn hạn tù, ông lai phải đi đầy ở Kok-Terek, miến Đông Bắc Kazakhstan. Ở đó, ông bị bệnh ung thư nặng tưởng như sắp chết, nhưng vì tên tuổi ông đã vượt quá ranh giới quốc gia, nên nhà cầm quyền phải gửi ông đi chữa trị tại Tashkent, nơi đây với kỹ thuât cao, đã cắt bỏ khối ung thư thành công. Năm 1970, ông được Giải Nobel về Văn Chương, nhưng ông không được đi nhận giải này, đến mãi năm 1974, sau khi ông bị “trục xuất” ra khỏi nước Nga, ông mới được lãnh giải này. Năm 1990, một năm trước khi chế độ Liên Bang Sô Viết sụp đổ, ông được Nhà Nước Liên Xô gọi để trả quyền công dân, tuy nhiên, mãi đến 1994, ông mới trở về Nga với bà vợ, Natalia, người mà sau đó đã trở thành công dân Hoa Kỳ. Nhà văn chiến đấu thiên tài này mất năm 2008, vào tuổi 89. Suốt thời gian ở nước ngoài, Solzhenitsyn không sáng tác được tác phẩm nào vượt qua hai cuốn truyện lừng danh khi trước, và tên tuổi ông cũng chìm dần trong sự lãng quên của thiên hạ.

Nhìn lại tình hình những người tranh đấu cho Dân Chủ tại Việt Nam, chúng ta thấy có nhiều trường hợp tương tự. Bên cạnh năm trường hợp với tên tuổi không được phổ biến vì sợ liên lụy cho những thân nhân còn lại, có những khuôn mặt lớn như Mục Sư Hồ Hiếu Hạ, Giáo Sư Nguyễn Chính Kết, Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt, Chiến Hữu Võ Đại Tôn, Nhà Thơ Nguyễn Chí Thiện, Đốc Sự Phạm Trần Anh, Luật Sư Bùi Kim Thành, Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy, và gần đây, Cù Huy Hà Vũ đã bị “trục xuất” ra khỏi nước. Thật sự, dùng chữ “trục xuất” ở đây cũng chưa hẳn đúng, vì tất cả mọi trường hợp ra đi, đều có sự can thiệp cực mạnh của Hoa Kỳ cũng như của các cơ quan Nhân Quyền quốc tế. Vì sự thúc đẩy của Hoa Kỳ mạnh nhất nên Công Sản Việt Nam đành cho tất cả những người nói trên được sang Hoa Kỳ và sinh sống ở đây. Đa số người đã đi trực tiếp từ nhà tù hoặc chỉ ở ngoài nhà tù có một ngày rồi bay đi Mỹ luôn. Năm 1990, Mục sư Hồ Hiếu Hạ đang ở tù thì đột nhiên được đưa về Saigon, ngủ một đêm (?), rồi bay thẳng sang Mỹ. Chiến Sĩ Võ Đại Tôn thì được một khoảng thời gian Tự Do ngắn ngủi trước khi qua Hoa Kỳ. Với Luật Sư Bùi Kim Thành, bà cho biết cũng không được đoàn tụ với gia đình quá một ngày mà được đưa thẳng sang Mỹ. Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy cũng thế. Gần đây nhất, Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ cũng được trả tự do cùng ngày với chuyến bay đi Mỹ.

Điều quan trọng liên hệ đến những việc “trục xuất” hay di tản này, là những hệ quả của việc ra đi gấp rút đó. Tùy trường hợp và tùy theo hoạt động của mỗi người khi còn ở trong nước, mà họ đã thành công hay thất bại ở Mỹ một cách cay đắng.

-Năm vị mà tên tuổi không được lưu tâm mấy (không thể trình bầy trong bài này, vì sẽ có những hậu quả không tốt cho gia đình còn kẹt lại ở Việt Nam), thì hầu như biến mất trong diễn đàn chính trị và không được ai nhắc nhở đến và chính họ cũng không muốn được nhắc đến vì đang phải vật lộn với cuộc sống trước mắt đầy gian lao, thử thách. Có người đi học “nail”, người thì nhận tiền bệnh, người thì phải chấp nhận đi săn sóc các bệnh nhân già hay gần chết, phải quen với máu mủ, đi tiểu, đi tiêu, tắm rửa.. Làm được điều này thực sự là cực kỳ khó khăn cho những ai đã từng có đời sống thoải mái ở Việt Nam. Một, hai vị chịu không nổi với áp lực của cuộc sống, không thể kiếm gạo tại nơi này lại đang chuẩn bị trở về nước.

-Giáo Sư Đoàn Viết Hoạt thì hầu như không xuất hiện nơi chốn đông người, chỉ thỉnh thoảng mới lên tiếng trong một vài cơ hội gặp gỡ nhỏ lẻ tại các cuộc hội thảo không lớn. Hầu như ông né tránh cộng đồng sau khi ông ngỏ ý thiên về biện pháp hòa hợp hòa giả với Cộng Sản. Nhiều bài báo nêu tên ông ra như một cái đích để bắn tỉa với những luận điệu rất kỳ quặc. Do đó, hầu như ông đã biến mất khỏi diễn đàn chính trị hải ngoại.

-Luật Sư Bùi Kim Thành thì tên tuổi hoàn toàn bị cháy, vì những hành động không được cộng đồng chấp nhận và những lời phát ngôn không đúng chỗ. Ngoài ra, sự liên hệ của bà với nhóm Nguyễn Hữu Chánh, rồi Việt Weekly, Nguyễn Phương Hùng, đã làm cho cộng đồng xa lánh bà. Hiện nay, bà bị tẩy chay trong tất cả các cuộc mít-tinh, hội thảo cộng đồng.

-Mục Sư Hồ Hiếu Hạ thì hầu như chỉ còn lo việc phụng sự Chúa mà không tham gia sinh hoạt chính trị nào nữa. Dư luận không hề nhắc đến tên ông từ gần hai thập niên nay.

-Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện thì đã dùng hết khả năng văn chương của mình mà tiếp tục chiến đấu trên các diễn đàn chính trị quốc tế cũng như tại Mỹ, bất chấp lời ông tiếng ve của bọn nằm vùng và tay sai cũng như của một số người thích “độc quyền chống Cộng”. Không để ý đến những lời vu cáo, mạ lị, chửi bới tục tĩu hàng tôm hàng cá của ngay chính những người mệnh danh là chống Cộng, ông vẫn tham gia vào nhiều tổ chức, sinh hoạt chính trị chống Cộng và vẫn dõng dạc cất lên tiếng nói của một người công chính cho đến khi ông ra đi. Bên cạnh ông, Đốc sự Phạm Trần Anh vẫn có mặt trong hầu hết các sinh hoạt cộng đồng và nhờ sự trợ giúp của bạn hữu, đã ra mắt sách vài lần, nhưng kết quả không được như ý muốn vì sự hờ hững của thiên hạ.

-Giáo sư Nguyễn Chính Kết vẫn tiếp tục tranh đấu theo phương tiện của ông, và trên các diễn đàn chính trị của đài phát thanh, truyền hình, và một số bài trên Net. Tuy nhiên, vì phải lo sinh sống với cái tuổi không còn trẻ, ông đã không còn hăng say như những ngày đầu. Vì thế, tên của ông chỉ được nhắc đến trong những lần sinh hoạt thật lớn. Dĩ nhiên, ông cũng bị mạ lị tơi bời trên Net.

-Chiến sĩ Võ Đại Tôn, khi mới sang Mỹ được tiếp đón rạng rỡ, nhưng sau khi có những bài viết gây bất lợi cho ông đến từ trong nước hay ngay tại hải ngoại, ông đã mất đi hào quang của ngày mới trở lại Mỹ, mặc dù ông vẫn tiếp tục tham gia tranh đấu theo phương diện văn chương. Ngay sau khi ông về Hoa Kỳ, Công Sản Việt Nam gửi theo môt tấm hình mà chúng cho là ông đang nhậu với công an, và bản tự kiểm mà bất cứ người tù chính trị nào cũng phải viết trước khi ra khỏi trại. Một tờ báo vớ được tài liệu đó vội vã tung lên ngay, làm cho hào khí của những người ngưỡng mộ ông dần phai lạt.

-Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy hiện tại cũng đang tiếp tục đấu tranh cho Dân Oan bằng các tuyển tập văn chương và các buổi nói chuyện với cộng đồng, tuy mức độ không được như ý, nhưng vẫn giữ vững tinh thần của mình không mệt mỏi. Lý do mà hoạt động đấu tranh của bà không được cộng đồng ủng hộ nhiệt tình, vì trong phương diện một người ở Việt Nam xa lắc, không thể hiểu nổi được những sự thực phũ phàng tại hải ngoại, bà đã tham gia vào Việt Tân, một đảng phái không được đa số ưa chuộng rồi sau đó, lại tách ra khỏi đảng ấy qua những tranh cãi vô ích. Do đó, lời phê phán bà nhiều hơn là hỗ trợ. Hiện nay, bà cũng đang chật vật với cuộc sống trên xứ người vì không còn được chính phủ trợ cấp nữa.

-Tiến Sĩ Cù Huy Hà Vũ, vì mới tới được một, hai ngày, chưa hoạt động gì, nên cộng đồng phải chờ xem môt thời gian nữa, mới có thể kết luận được việc làm của ông có ảnh hưởng và y nghĩa như thế nào trong cuộc chiến đấu cho Tự Do, Dân Chủ tại Việt Nam.


Trong tất cả các trường hợp ấy, có môt điểm chung nhất mà tất cả những vị trên phải đối diện một cách căng thẳng là “dư luận tại hải ngoại”. Dư luận tốt thì ít, mà dư luận xấu thì tràn ngập. Điểm xuất phát từ những dư luận xấu là từ những chuyên viên Cộng Sản nhận lệnh phải trù dập những người ra đi này cho tàn mạt, do tay sai nằm vùng tại hải ngoại, do những tên phản bội, trở cờ, theo Cộng để nhận chút tiền bố thí của Cộng hầu sống sót qua ngày, cũng có thể là những dư luận viên thích “Nổ”, hay khoe khoang tài năng tiên đoán chính trị của mình, và những người ghen tị, thấy ai nổi lên được thì phải dìm xuống cho cùng tầng lớp với mình mới khoái chí. Rất ít dư luận viên có tinh thần khoa học, khách quan, phân tích tường tận vấn đề có lợi cho đất nước qua những nhân vật từng là những đốm lửa sáng chói kia. Nhưng tất cả những hậu quả ấy, đều nằm trong một kế sách của Cộng Sản Việt Nam, bắt chước Liên Xô. Đó là kế sách: Mượn đao giết người. Khi không thể bỏ tù lâu hơn được vì sức ép của quốc tế, muốn lừa gạt thế giới, cho thấy rằng chế độ cũng có chút nhân đạo, thì trục xuất những nhà tranh đấu ra khỏi nước, rồi đuổi theo giết chết tên tuổi đó bằng các dư luận viên của chúng, trong khi kích động các như dư luận viên, các nhân vật “Nổ” ở hải ngoại bằng những lời lẽ tưởng như là chân lý. Vì sống trong tiện nghi dân chủ ở nước Mỹ lâu rồi, một số các quan sát viên, không thông cảm được nếp sống thực ở Việt Nam, bị ảnh hưởng bởi dư luận linh tinh, nên cũng vô tình tiếp tay với Cộng Sản, viết bài phê bình nặng nề, làm chết tên tuổi của các nhà tranh đấu đó. Dĩ nhiên, những nhân vật thích “Nổ” thì khi vớ được đề tài, vội vã lên án ngay, để chứng tỏ mình là “trên thông thiên văn, dưới làu địa lý, tiên đoán như Khổng Minh, lầu thông binh pháp như Tôn Tẫn.” Những người này bung ra một loạt câu hỏi: “Tại sao người ấy lại làm như vậy? Tại sao người ấy lại không làm như vậy?” nghĩa là chặn cả hai đầu, nói “có” cũng chết, mà nói “không” cũng chết.

Thực tế, nhà cầm quyền Cộng Sản nhận thấy rằng nếu trả tự do cho các nhà tranh đấu, để họ sống thong dong trong nước thì nhức đầu, sợ mấy người này “quậy tới bến”, sợ họ lôi kéo thêm được cảm tình viên, sợ tiếng tăm của họ nổi như cồn trên thế giới làm ảnh hưởng đến việc bám trụ vào quyền lực của Đảng. Vì thế, giải pháp thần sầu nhất là “Mượn Đao Giết Người”, cho những người này, sau khi sang Mỹ thì mất đi hào quang của những ngày còn trong tù ngục và có thể còn bị nhục nhã nữa. Sau khi nhà thơ Nguyễn Chí Thiện được tự do, thì lập tức hàng loạt bải viết mạ lị ông, vu cáo ông, phân tích lý lịch tập thơ của ông, đồng thời chụp cho ông một loạt “mũ” xấu xí như “Nguyễn Chí Thiện từng làm chủ động điếm ở Bà Mâu…”, “Nguyễn Chí Thiện này là giả, Thiện thật đã chết trong tù”, “Thiện ở Mỹ là cán bộ tình báo của Trung Cộng”…vân vân…Với các nhân vật khác cũng thế, ai cũng bị chụp mũ, nhiều hay ít, thì tùy hoàn cảnh. Kế sách “Mượn Đao Giết Người” của Cộng Sản thật là hữu hiệu, không đổ mồ hôi, không lo chặn bắt, canh giữ mà các nhân vật bị “Trục xuất” kia cứ từ từ mà chết dần. Một nhà lý luận trí thức, tác giả của bài “Trần Khải Thanh Thủy đã chết”, nay lại viết thêm một bài nữa: “Cù Huy Hà Vũ đã Chết!”. Thật độc địa!

Còn với Cù Huy Hà Vũ, thì ngoài luận điệu là “sao không tiếp tục ở tù mà lại sang Mỹ làm chi?” còn luận điệu khác là : “Coi chừng Cù Huy Hà Vũ là con cờ của Cộng Sản.Cù Huy Hà Vũ được cài sang Mỹ để mai mốt về nắm quyền hành, môt khi chế độ Cộng Sản xụp đổ, thì cũng có người cứu bồ…” Hoặc khoa học hơn: “Cù Huy Hà Vũ không thể trở về…” vân vân và vân vân…

Những tác giả vu chụp ấy, thường ngồi viết bên cạnh cái bàn viết đầy đủ tiện nghi, và ly cà phê sữa hột gà nóng hổi, không hề nghĩ rằng nhu cầu đấu tranh cho Dân Chủ và trách nhiệm cứu nước không phải là nhiệm vụ riêng của những nhà tranh đấu ấy. Việc chống Cộng cứu nước là của toàn dân, trong đó có những tác giả thích lý luận ấy! Tại sao chính các tác giả các bài lý luận đó không đứng lên tranh đấu cho Dân Chủ đi, mà buộc những người kia phải tiếp tục làm hoài cho đến chết? Những người vu chụp đó đã làm gì cho dân tộc chưa? Hay chỉ ngồi sa lông mà lý luận xuông? Họ có biết rằng “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” không? Trên hết, những ngày tù ngục đó cũng có thể là mồ chôn của họ, nếu bọn cai tù muốn giết chết họ rồi báo cáo là tù nhân tự treo cổ bằng chính dây giầy của mình? Lúc ấy, có thế lực nào có thể cải tử hồi sinh cho họ không? Thảng hoặc, họ được tha về, sống lây lất, không nghề nghiệp, đói lả người, vợ con nheo nhóc, có ai yểm trợ cho họ sống bình thường được không? Thường thì các nhà Dân Chủ, sau khi bị tù, thì lập tức công an vây chặt gia đình, bủa lưới dăng bắt cả bạn bè, người quen, họ hàng xa gần nữa. Vợ và chị em của ông Đoàn văn Diên bị xua đuổi đến cùng, cho đến khi bà vợ phải chạy xe ôm, thì cũng bị công an cho xe đụng, què luôn. Luật Sư Lê Trần Luật bị xua đuổi, không chỗ ở, vợ chồng con cái lang thang, đến ngụ chỗ nào cũng bị công an phong tỏa. Chủ nhà bị đe dọa: “Chị có biết đang chứa chấp một tên phản động không?”, thế là chủ nhà chắp tay, van lạy Luật Sư Lê Trần Luât ra đi giùm! Trong khi Hồ Thị Bích Khương đang chiến đấu ở Hà nội, thì công an ở nhà bóp cổ giết chết chồng cô, rồi vất ra sông cho trôi lềnh bềnh nhiều này. Bọn khốn còn dàn dựng đụng xe cho cô chết, nhưng may mắn, cô chị bị gẫy xương vai và xương sườn. Chúng vá xương vai của cô bằng cái đinh bù long đóng từ ngoài bả vai vào trong, đầu đinh thò ra ngoài, máu mủ chẩy tươm suốt ngày. Chưa đủ, bây giờ chúng lại bắt cô nhốt tù như nhốt chó. Lê Thị Kim Thu bị đánh hội đồng trong tù, khi ra tù, chúng lột quần lót của cô, chỉ cho mặc quần dài rồi đuổi ra đường. Sau một thời gian, chúng lại nhốt lại. Tạ Phong Tần, luật gia, cựu Đại Úy Công An, luôn luôn bị côn đồ làm nhục. Chúng còn muốn tụt quần cô ra giữa đường, sau đó thì bưng cô lên vất vào phường, bỏ đói, bỏ khát… Nguyễn Hoàng Vi bị công an bắt cởi hết quần áo, rồi xâm phạm cô. Huỳnh Thục Vy nuôi con nhỏ trong buồng, thì ngoài cửa bọn khốn đổ đầy phân người vào, khiến mẹ con cô nôn thốc nôn tháo. Cháu bé bị mùi thối, muốn xỉu… Còn rất nhiều vụ hành hạ vô nhân đạo như bởi bàn tay ma quỷ nữa cho tất cả những ai can đảm dám đứng lên tranh đấu. Và, biết bao người, đột nhiên bị công an kêu lên làm việc, sáng hôm sau, đã chết và thân nhân chỉ nhận được một câu: “Anh ấy tự tử bằng cách tự nhét giẻ vào mồm cho đến chết!” Có ai làm gì được chúng nó không? Các nhà lý luận kia có về cứu được họ ra khỏi tù không? Có dám thử làm tù nhân môt ngày trong cái xã hội khủng khiếp, ghê rợn đó, đang bị Sâu Bọ Lên Làm Người cai trị không?

Xin hãy trả lời trước khi dùng chữ giết chết các nhà Dân Chủ mới được tự do ở Thế Giới Tự Do này. Và nên nhớ là họ tự nguyện làm việc đó chỉ vì lòng yêu nước chan chứa, chứ không có ai trả tiền hay ra lệnh cho họ cả. Cứu Nước là việc chung của tất cả chúng ta, không phải là nhiệm vụ đặc biệt của những người đang chấp nhận sống, chết, lên tiếng nói cho Lẽ Phải kia. Xin hãy đứng dậy và làm điều gì cho đất nước đi, còn nếu cứ ngồi xuông mà phê phán thì bất cứ một “teenager” nào cũng làm được.

Chu Tất Tiến.

Chiến Thuật «Luộc Ếch»

Chiến Thuật «Luộc Ếch»
Trần Mộng Lâm


Năm 1996, Daniel Quinn viết cuốn sách có tên là Truyện của B (The Story of B) nói về lịch sử nhân loại trong đó ông dành riêng một chương để viết về con ếch, với những dòng như sau: Nếu ta bỏ một con ếch vào một nồi nước sôi, thì con ếch sẽ dẫy dụa và nhẩy ngay ra khỏi nồi nước. Nhưng nếu ta bỏ ếch vào nồi nước lạnh, để ếch nằm trong đó, rồi từ từ nâng nhiệt độ lên, thì ếch ngồi trong đó thoải mái cho đến khi bị luộc chín lúc nào không biết.

Olivier Clerc năm 2005 cũng viết một bài ngắn có tên hơi dài là «Con ếch không biết mình đang bị luộc….và những bài học khác ở đời», được Michel Debaig và Luis Maria Huette phổ biến dưới tiêu đề Sự Nghịch Lý của con ếch.

Sau này, để cảnh tỉnh nhân loại trước nguy cơ trái đất đang bị hâm nóng từ từ, cựu phó TT HK là ông Algore có thực hiện một cuốn phim gọi là Sự Thực Mất Lòng cũng khai thác đề tài này.

Câu chuyện bắt nguồn từ một tài liệu xuất hiện năm 1897 ghi lại một cuộc thí nghiệm tại Institut John-Hopkins năm 1982 : Một con ếch bị bỏ trong một nồi nước lạnh, sau đó người ta nâng nhiệt độ lên một cách rất chậm, chỉ 0,002 độ C mỗi giây. Sau 2 giờ 30 phút, con ếch bị luộc chín mà không nhúc nhích gì.

Câu chuyện lý thú nói trên khiến người ta liên tưởng đến hoàn cảnh nước Việt Nam ta, với tà quyền CS trong nước, và khối người Việt Hải Ngoại.

Vào đầu thập niên 1980, những người Việt định cư tại nước ngoài căm thù CS đến thâm gan, tím cật. Ai nói đến CS, là người ta chống đối mãnh liệt. Rồi ngày tháng qua đi, CS thì vẫn thi hành một chính sách độc tài, độc đảng như cũ, vẫn hà hiếp, bóc lột người trong nước như xưa, nhưng người tỵ nạn thì không phải tiếp xúc trực tiếp với những cán bộ ác ôn hàng ngày. Mối hận thù cũng không thể quên, nhưng cường độ một ngày một giảm đi. Hơn nữa, sau một thời gian dài cần cù làm ăn, người tỵ nạn đã có của ăn, của để, họ nghĩ đến việc trở về cố hương, để trước là thăm nơi quê cha đất tổ, nhưng cũng có phần để lên mặt với đời.

Mới đầu, số người về rất ít, sau càng ngày càng nhiều, nhất là vào các dịp Tết, Rồi Ông Nguyễn Cao Kỳ, Rồi ông Phạm Duy, rồi các ca sỹ nổi tiếng, ngày nào lếch thếch nơi Mã Lai. Hồng Kông, hay Thái Lan, Nam Dương, trong các trại tỵ nạn, nay áo quần diêm dúa, môi son đỏ choét, về lại cố hương, để có được «hạnh phúc hát trước đồng bào», làm như lòng yêu nước của họ to hơn số đô la chứa trong các phong bì mà họ nhận được sau những buổi trình diễn cuối đời.

Ngày nào, khi Đàm Vĩnh Hưng qua hát, người ta bảo nhau đi phản đối, tay cầm cờ vàng, miệng hô đả đảo. Ngày nay, Nguyễn Thanh Sơn, người quan trọng gấp mấy lần Đàm Vĩnh Hưng, đi Mỹ, đi Canada, chẳng ai thèm đặt vấn đề, lại còn bắt tay, phỏng vấn xỳ xèo.

Việc này, thực đâu có gì lạ, mà phải la làng.

Chỉ là một trong muôn ngàn thí dụ của «boiling frog syndrome».

Trung Hoa là một nước láng giềng của Việt Nam. Anh chàng láng giềng này lúc nào cũng muốn nuốt chửng Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ này, họ dùng 2 chiến thuật:

Chiến thuật «tầm ăn dâu», từng bước, từng bước lấy của VN những tấc đất, những vùng biển, như Hoàng Sa, Trường Sa, Nam Quan, đất đai vùng biên giới, việc này gây ra sự chống đối mãnh liệt, nhưng ít quan trọng hơn so với chiến thuật thứ hai.

Chiến thuật «luộc ếch» thâm độc hơn nhiều : lập công ty Trung Hoa khai thác các tài nguyên thiên nhiên, di dân , lấy vợ, đẻ con, xây chùa chiền theo kiểu Tầu, viết chữ Tầu trên các mặt tiền và trong các chỗ thờ phương, các bảng hiệu, lập các làng Tầu trên đất Việt…v.v. Ngày một, ngày hai, người Việt sẽ thấy người Tầu, văn hóa Tầu, cách sống Tầu, quá thân thuộc với mình. Khi ấy, thì Việt Nam có thành một ngôi sao trên lá cờ Tầu, cũng chẳng có gì quan trọng.

Nghĩ đi, nghĩ lại, người Việt, và các con ếch, có gì khác nhau đâu??

Mong rằng mọi người thức tỉnh kịp thời, trước khi Việt Cộng hoàn thành âm mưu bán nước.


Trần Mông Lâm

Friday, April 11, 2014

Ai thống trị Việt nam ngày nay? (GS Stephen B. Young)

Bài viết của GS Stephen B. Young. Ông qúa thấu hiểu VN và cũng như sử Việt nói chung nên bài của ông qúa chi tiết mà một người VN chúng ta chắc chưa có một bài tương tự. Nhờ phổ biến rộng đến từng tầng lớp dân tại VN/ PQA.

Ông Young, người Hoa Kỳ, Luật sư, nói tiếng Việt, có vợ là người Việt, đã sang VN nhiều lần. Đọc kỹ bài viết, mọi người sẽ thấy cách hành văn của một người ngoại quốc viết tiếng Việt, tuy rất kinh điển và rành lịch sử Việt Nam.

Stephen B. Young, Global Executive Director of the Caux Round Table, is a lawyer and writer. He has served as Dean of the Hamline University School of Law and as an Assistant Dean at Harvard Law School



Ai thống trị Việt Nam ngày nay:
Đảng Cộng sản hay là Hán Ngụy?


Stephen B. Young
Có một tổ chức hiện nay cai trị Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau như là vua chúa Phong kiến ở Tàu hay ở Âu châu thời Trung cổ . Một bộ máy võ trang tập trung các quyền hành lớn trong tay; không được dân bầu lên, và dân tuyệt đối không có quyền kiểm soát hay phê bình. Tổ chức này mang tên là “Đảng Cộng Sản Việt Nam”.
Nhưng, thực sự, tổ chức nầy có phải là một Đảng đúng nghĩa của một đảng hay không?

Đáng lẽ ra một Đảng chánh trị phải có một chánh nghĩa, một sức mạnh do một lý tưởng, một nền tảng triết lý hay lý thuyết, một khuynh hướng thể hiện nguyện vọng của đảng viên để hành động nhằm phục vụ đất nước và dân tộc của mình.
Vì vậy, nếu cái gọi là Đảng Cộng Sản mà không phải là một Đảng đúng nghĩa, thì bộ máy đó là cái gi?
Một tập thể những người có chung một chí hướng tôn thờ người ngoài, một công ty làm ăn, một tổ chức mafia khai thác thị trường đất nước của họ chăng?

Như vậy chúng ta có vài tiêu chuẩn để đánh giá cái gọi là Đảng Cộng Sản bây giờ,
đó là một đảng phái hay chỉ là một bọn làm ăn thiếu lương thiện?
Tôi đồng ý đã có thời gian cái goi là đảng Cộng Sản ngày nay có những hoạt động như là đảng phái đúng nghĩa. Nhưng những hoạt động ấy tốt xấu, hay dở, có lợi hay có hại cho đất nước Việt nam là chuyện khác .Tôi nói đó là một “thứ đảng phái” vì lúc ấy đảng Cộng Sản theo ý thức hệ Mác-Lê, vận dụng chủ thuyết mác-lê làm cách mạng võ trang cướp chánh quyền thực dân.
Tiếp theo, đảng cộng sản phát động cuộc cách mạng xã hội, tiến hành giai cấp đấu tranh, đấu tố địa điền chủ, ám sát công chức, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, tịch thâu tài sản của người  giàu có để sau cùng đưa giới lao động, những tên du thủ du thực, lên cầm quyền và khi vào Bộ chánh trị, lại lãnh đạo đất nước, dân tộc. Hành động của đảng cộng sản lúc đó có mục đích thi hành "chính nghĩa xã hội chủ nghĩa ” theo ý hệ Mác-Lê.

Nhưng từ lâu lắm rồi, cái gọi là đảng Cộng Sản không còn giống như trước đó nữa. Nó đã hoàn toàn biến chất để trở thành một cái gì khác hẳn. Tức nó không phải cộng sản, không mang nội dung mác-lê, không chủ trương giai cấp đấu tranh để tiến lên xã hội công bằng, người không bốc lột người, như kinh điển mác-lê dạy người cộng sản.

Cách đây vài năm, ông Đặng Quốc Bảo, Khoa giáo trung ương, trong một báo cáo phổ biến hạn chế cho đảng viên cao cấp, nói rằng
“hiện tại đảng Cộng Sản không còn chính nghĩa chút nào vì thuyết Mác-Lê lỗi thời và cũng không đúng, không khoa học”. Theo ông Bảo, thì đảng cộng sản không nên áp dụng thuyết ấy nữa. Hai ông Mác và Lê đã nghĩ sai về vũ trụ, về trời đất, về đời sống nhân loại. Vậy người thông minh phải vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê.

Nếu ông Bảo đánh giá lý thuyết Mác-Lê đúng, thì
đảng Cộng Sản không có một chính nghĩa nào để vẫn khẳng định tiếp tục đưa Việt nam đi theo con đường của mác-lê.
Vậy đảng cộng sản là cái gì?
Chỉ là một tập hợp những người đầy tham vọng và quyền lực. Họ không khác gì một thứ giặc cướp đối với nhân dân.
Ông Bảo nói thêm rằng “ tổ chức anh chị em cán bộ phải giử quyền cai trị Việt nam vài năm nữa, vì nếu không có một lực lượng mạnh giử ổn định chính trị xã hội, thì nước sẽ loạn và dân sẽ khổ ”.
Lấy sự ổn định làm chính nghĩa của mình không có ý nghĩa tốt đẹp vì hoàn toàn thiếu thuyết phục. Chính nghĩa ổn định, nhiều người bình thường có thể nói và thi hành. Cần gì phải có cái gọi là đảng Cộng Sản với 3 triệu đảng viên, với vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội ? Quân Đội làm được. Phật Giáo làm được. Việt Quốc làm được. Ai cũng hy vọng làm được. Cái gọi là đảng Cộng Sản không thể tự cho là chỉ có họ mới làm được.
Theo tuyên truyền của đảng cộng sản, trong quá khứ, họ có công đức lớn để đứng trên và trước mọi người khác.
Tức họ cho rằng họ có vai trò lịch sử có đúng như vậy không?
Để trả lời, giờ đây, Bộ Chính Trị hãy tổ chức gọi hồn các đồng chí của họ đã chết, chết vì hi sinh hay chết oan vì đảng cũng được, để hỏi công việc đảng làm. Rồi, có lẽ họ nên gọi hồn để hỏi cái gọi là đảng cộng sản thật sự có công đức với dân tộc Việt Nam hay không? Rồi, họ có thể gọi hồn để hỏi đảng cộng sản tại sao ngày nay vẫn nói đi theo mác-lê,
mà trên thực tế không thấy xã hội việt nam chuyển biến theo mô hình” chính nghĩa Mác-Lê.” một chút nào nữa. Vậy thì cái đảng này nên tự giải tán, và có mang tội với đất nưóc, với dân tộc không?

Chúng tôi cũng có thể gọi hồn như Bộ Chính Trị. Chúng tôi có thể gọi hồn các vị cũng nằm xuống, vì nhiều lý do khác nhau, hỏi họ về công đức của cái gọi là đảng Cộng Sản.

Thí dụ, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hỏi ông Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng , ông Lý Đông A, Thư ký trưởng Đảng Duy Dân, các nhân sĩ yêu nước Ngô Đình Khôi, Nguyễn văn Bông, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Hồ văn Ngà, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Sâm, … và những người dân Huế chết hồi Tết Mậu Thân, vân, vân, … cho đến 1 ,2 triệu người Việt nam bình thường khác, chết trên biển cả, trong rừng sâu, trong các trại tù rải rác khắp cả nước.

Gọi hồn tất cả những người này về và lắng tai nghe họ nói số phận của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản vận dụng “chính nghĩa Mác-Lê” để cướp lấy quyền lãnh đạo đất nước và giử độc tôn cho đảng .

Xin trả lời:
Công đức ở đâu?

Bằng chứng thứ hai cho thấy cái gọi là đảng Cộng Sản là một đảngthì đảng ấy có hành động cụ thể như thế nào?

Ngoài sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự tính toán của con người, các hành động của người đó phải cho chúng ta thấy rõ, một cách minh bạch, để kết luận người đó tốt hay xấu, giỏi hay dở, đạo đức hay gian ác, cần tồn tại hay nên vứt
đi thôi ?
Cái gọi là đảng Cộng Sản đó, cách đây 8 năm, đã tự động hiến dâng đất đai của tổ tiên để lại cho Bắc Triều mới . Và cả biển nữa! Tại sao?
Để đáp ứng sự đòi hỏi của Bắc Triều mới? Phải.

Ở điểm này, chúng ta hảy nhìn rõ.
Cái gọi là đảng Cộng Sản đó vì nhu cầu tồn tại đã dâng đất, dâng biển cho Bắc kinh. Đây là nhu cầu sanh tử. Đảng cộng sản phải làm một việc tội lỗi như vậy chỉ vì đảng lo sợ nhân dân Việt nam hỏi tội của họ đối với tổ quốc và nhân dân từ trước đến giờ. Mà nhân dân hỏi tội có nghĩa là đảng sẽ bị mất quyền cai trị. Hoặc một vụ Thiên An Môn Việt Nam sẽ xảy ra . Trước nỗi ám ảnh mất quyền lực, đảng cộng sản cần sự ủng hộ, sự tiếp tay của Bắc Triều mới, mặc dầu có tổn hại đến quyền lợi tối thượng của Quốc gia.
Như vậy đảng cộng sản ở Hà nội không thể tự cho là một đảng có chính nghĩa yêu nước được, mà phải bị kết án là một đảng bán nước mới đúng.

Nếu đảng Cộng Sản Hà nội chuyên tâm phục vụ cho đòi hỏi, tham vọng của Bắc Triều mới, thì Việt nam tất nhiên phải lâm nguy làm thân nô lệ cho Hán Tộc. Nếu chỉ có riêng cái đảng cộng sản làm nô lệ hán tộc thì chúng ta hà tất phải tốn lời.
Thực tế ở Việt nam cho ta thấy công an, tình báo của Việt Nam đều do công an, tình báo Trung Quốc đào tạo và cố vấn. Nhờ đó mà công an, tình báo Hà nội mới có đủ bản lãnh đàn áp những người dân chủ ở Việt nam, đàn áp dân oan nạn nhân của những vụ đất đai bị đảng cộng sản tước đoạt, đàn áp những vụ biểu tìng chống Trung quốc xăm chiếm đất đai bằng vũ lực và thô bạo.
Nhìn lại lịch sử Việt nam thì từ thời Ngô Quyền đến nay, chỉ có vài nhà vua Việt nam theo Bắc Triều một cách xấu hổ như vậy. Có Nhà Mạc phải xin sự ủng hộ của Hoàng đế phương Bắc để đối phó với Nhà Lê. Có vua Lê Chiêu Thống xin Trung Quôc gởi binh qua Hà nội để đánh anh em Nhà Tây Sơn. Có vua Gia Long và Minh Mạng lấy y thức hệ Tống Nho của Nhà Thanh bên Tàu để làm nền tảng đạo lý xây dựng uy quyền cho Nhà Nguyễn . Nhưng các ông vua này không làm mất đất, mất biển vào tay ngoại bang chỉ
vì quyền lợi riêng tư như đảng cộng sản ngày nay.
Cầu viện thường hay lệ thuộc tư tưởng của kẻ khác, khó tránh khỏi bị dẩn đến mất chánh nghĩa quốc gia. Phải chăng vì thế mà Nhà Mạc đã không thắng Nhà Lê, vua Lê Chiêu Thống thua Quang Trung Nguyẽn Huệ. Riêng Nhà Nguyễn vì chọn lựa sai lầm học thuyết lỗi thời mà cứ khăng khăng ôm giữ nên thua người Pháp. Tức một thứ lệ thuộc tư tưởng. 
Khi có được chỗ dựa mạnh là Bắc kinh, cái gọi là đảng Cộng Sản sẽ đánh bại được toàn dân Việt nam chăng? Tức đảng cộng sản vỉnh viễn đàn áp, bốc lột nhân dân chăng?

Mới đây khi nghe tin Bắc Kinh tổ chức Hoàng Sa và Trường Sa trở thành môt đơn vị hành chánh mới trực thuôc Tỉnh Hải nam, lập tức xảy ra nhiều cuộc biểu tình của dân chúng thanh niên, sinh viên ở TP Hồ Chí Minh, ở Hà nội, chống chánh sách xăm lược của Trung Quốc.
Cái gọi là Đảng Cộng Sản không dám lên tiếng phản đối kẻ cướp đất, trái lại thô bạo đàn áp dân chúng công khai bày tỏ lòng yêu nước. Khí thế của nhân dân Việt nam bây giờ làm cho đảng cộng sản Hà nội bắt đầu lo sợ.  Nếu đảng cộng sản khôn ngoan thì hảy thấy ở đây, tức ở nhân dân, mới là chổ dựa vửng chắc hơn thế của Trung Quốc.

Nhưng cái gọi là Đảng Cộng Sản nghe theo ai?

Buồn mà nói.
Vì nói cho đúng thì phải nói lớn và nói rỏ phe nhóm cai trị Việt Nam hiện nay là một bọn Hán Ngụy.
Tiếc vì chúng tôi biết chắc chắn có nhiều đảng viên của cái gọi là Đảng Cộng Sản không muốn như vậy. Họ thương dân, yêu nước thật lòng.
Nhưng họ lo sợ, có thể vì bất lực, cho sự an nguy của bản thân và gia đình trước những thủ đoạn khéo léo, gian ác, đê hèn của lực lượng Công An, Tình Báo đang có mặt khắp nơi rình rặp.
Bọn Hán Ngụy thật sự không có nhiều người, nhưng họ có thế mạnh và nhiều tiền bạc. Họ quyết tâm giữ quyền lực cai trị đất nước mãi mãi. Họ sẽ làm cái gì phải làm để không mất địa vị cầm quyền, tức quyền làm ăn, làm giàu của họ.
Lệ thuộc Bắc Kinh, đối với họ, là một giá phải trả, họ chấp nhận trả, để có phương tiện ổn định xã hội chính trị Việt nam, tức duy trì chế độ độc tài toàn trị. Ổn định là cho quyền lợi của họ. Đất nước đối với họ chỉ là phương tiện trao đổi.

Trung Quốc có một triết lý bình định thiên hạ từ đời Tần Thủy Hoàng. Ông ấy lấy ý kiến của phái Pháp Gia gồm lý thuyết âm dương, ngũ hành để kiến tạo thái hòa. Làm chính trị như vậy không theo sự giảng dạy của Khổng Mạnh, trái lại, đưa ra chính sách đại đoàn kết, giữ phép nước dưới sự lãnh đạo đọc tôn theo một vị hoàng đế. Đó là thuyết của Mặc Địch.
Cái đạo chính trị này – “ hoàng đế chính thuyết ”– là lý thuyết xây dựng xã hội không cần nghe ý dân. Đi từ trên xuống, không phải từ dân lên. Ngày nay là tập trung dân chủ, tức dân chủ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ chí minh. Hoàng Đế nghe trời, ra lịnh và thiên hạ phải tuân theo. Dân không nghe theo thì sẽ bị phạt, nặng nhẹ tùy theo mức độ của sự phản bội, bất hiếu đối với chế độ.

Một ông Hoàng Đế không cần đức, không cần uy tín mà vẫn giữ được ổn định xã hội. Hiếu nghĩa thay thế nhân nghĩa. Cấp trên nói cái gì thì cấp dưới vâng dạ theo răm rắp. Nói vô phép, mất dạy, thì bị phạt, không được phần thưởng.

Đạo làm hoàng đế có mục đích lấy ý trời và qua cơ cấu hành chánh, ép thiên hạ vâng lịnh làm theo ý đó, mặc cho họ muốn hay không.

Trong lịch sử Việtnam, các Nhà Lý, Trần và Lê không lấy đạo Hoàng Đế của Bắc Triều để trị dân. Nhà Lý và Nhà Trần theo đạo Phật. Nhà Lê cho đến Vua Lê Thánh Tôn theo quan điểm nhân nghĩa do Nguyễn Trãi viết ra.

Vua Lê Thánh Tôn bắt đầu theo chủ nghĩa Bắc Triều , tức lấy Tống Nho bênh vực ngôi vị Hoàng Đế một cách mù quáng với đạo hiếu nghĩa cha mẹ, vua chúa. Đến Nhà Mạc, Chúa Trịnh, thì ảnh hưởng Tống Nho ở cấp quan văn và các đại gia đình quan chức mở rộng. Nhà Nguyễn áp dụng Tống Nho và quan điểm hoàng đế, đưa triều đình Huế đi theo gương Nhà Thanh bên Tàu.

Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là “Mỹ Ngụy” .

Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn hơn cho Dân Tộc Việt nam:
Mỹ Ngụy hồi đó hay Hán Ngụy bây giờ?

Người Mỹ khi họ giúp các Chính Phủ Việt nam Cộng Hòa, khi họ làm cố vấn cho Chính phủ và quân đội quốc gia, họ thật sự muốn gì? Họ khuyến khích người Quốc Gia làm gì? Họ đòi hỏi Chính Phủ Sài gòn có chính sách nào?

Nói chung, người Mỹ từ Tổng Thống Eisenhower cho đến Tổng Thống Nixon, từ Đại Sứ Elbridge Durbrow cho đến Đại Sứ Ellsworth Bunker, tất cả
đều yêu cầu Chính Phủ Sài gòn lo cho dân, áp dụng chế độ hiến trị, tổ chức các cuộc bầu cử từ xã ấp đến trung ương, trong sạch, dân chủ, cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, mở rộng giáo dục theo tôn chỉ “nhân bản, khoa học, khai phóng ” …
Đối với Mỹ thì ý dân là hơn ý trời. Mỹ không bao giờ theo “ hoàng đế chính thuyết ”.
Như vậy làm Mỹ Ngụy là chọn phương pháp lo cho dân, cho quê hương Việt nam, cho văn hóa, đạo đức dân tộc. Người Mỹ đến Việt nam, không ở lại Việt nam. Và “dân ngụy.” không hiến dâng đất dai, biển cả cho ngoại bang. Hơn nữa, trong lịch sử, người Mỹ không làm thuộc địa, không làm Thái thú, chỉ làm bạn đồng minh giai đoạn.
Còn người Việt nào bây giờ làm Hán Ngụy thì phục vụ ai? Họ có lo sợ số phận Tổ quốc của họ không? Hay chỉ có chung một thứ Tập hợp những người cùng chí hướng tôn thờ quyền lợi bản thân mà thôi?

Stephen B. YOUNG

Wednesday, April 9, 2014

Tôn Nữ Hoàng Hoa viết về THÍCH TRÍ QUANG

Tôn Nữ Hoàng Hoa
viết về THÍCH TRÍ QUANG
Gần đây chúng tôi đã nhận rất nhiều email và điện thoại về cùng một câu hỏi "Tại sao Phật Giáo mình lung tung vậy?”
Khi một số người con Phật thắc mắc về đạo của mình đang ở vào tình trạng ”lung tung"  tức  là ở đó họ đang cần thấu hiểu hiện thực của tình trạng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN).Cho đến nay trước những mưu toan xâm chiếm GHPGVNTN bắt nguồn từ những vị Sư Quốc Doanh đã trà trộn trong Phật Giáo VN đã từ từ lộ diện.
Tuy những tổ chức trá hình Thân Hữu Già Lam, Nhóm Tăng Ni Hải Ngoại đi từ Giao Điểm, Giao Điểm Về Nguồn đã cho thấy lực lượng Sư Quốc Doanh trong GHPGVNTN đã lặn sâu để hôm nay nhất định phải trèo cao hầu thực hiện giai đoạn chót của những kẽ đạo tặc trong GHPGVNTN đang biến Đạo Vào Đảng hôm naỵMột khi nói đến giai đoạn chót chắc chắn chúng ta phải nhắc đến giai đoạn đầu: Giai đoạn của các Sư Quốc Doanh thực hiện kế hoạch đưa Đảng vào Đạo.
Cho dù đứng dưới lăng kính nào. Cho dù bất cứ một suy nghĩ nào dù cho các vị cao tăng trong GHPGVNTN cũng phải đồng ý ngầm một điều rằng bất cứ những biến cố nào đang xảy ra hôm nay cũng đều được điều hướng bởi "Thái Thượng Hoàng" .
Một Thái Thượng Hoàng mà trong bức tâm thư cùa TT Thich Chơn Tâm đã gởi ra cách đây không lâu đã có nhắc đến trước âm mưu soán ngôi của Đại Lão Hoà Thương Thích Quảng Độ của nhà thơ, nhà tu, nhà ước mơ Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây ca khúc khải hoàn Thích Tuệ Sỹ. Thái Thượng Hoàng đó mà Thích Chơn Tâm ám chỉ là ai. Xin thưa cùng qúi vị đó chính là Thích Trí Quang.
Một thời đã "chống Mỹ cứu nước lẫy lừng” qua biến cố Miền Trung 1963-1966.
Thích Trí Quang hiện đang cư ngụ tại Chùa Già Lam của Thích Trí Thủ, ở Việt Nam.Cho nên khi qúi vị có ý nghĩ là " Sao Phật Giáo mình lung tung",  đó chính là ý đồ của Việt Cộng muốn tạo ra cho quý vị sự  suy nghĩ đó, dể chúng dễ dàng đánh phá Phật Giáo, giam giữ qúi vị cao tăng chánh tâm cầu đạo hay thảm sát qúi vị chân tu , bức tử đầu độc qúi Thầy sau khi nhìn ra chân tướng của chúng trong kế hoạch Biến Đạo Phật vào Đảng tiếp nối một giai đoạn lịch sử của Phật Giáo qua Biến Cố Phật Giáo tại Miền Trung năm 1963 -1966.
Sau việc chỉ huy điều hành Thanh niên và Sinh Viên Phật Tử Tại Huế để lật đổ chính quyền Đệ Nhất VNCH và cuộc thảm sát cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Người dân Miền Trung đã không còn nhìn thấy Thích Trí Quang là hình ảnh của một ông Thầy Tu mà là một hình ảnh của một vị TướngTrận Bận Áo cà Sao để thao túng chính trường Nam Việt Nam.
Nếu bảo là Chính quyền Đệ Nhất VNCH đàn áp Phật Giáo và Thích Trí Quang phải lãnh đạo cuộc xuống đường để bảo vệ Giáo Pháp? Vậy thì sau khi chính quyền Đệ Nhất VNCH sụp đổ và Cố TT Ngô Đình Diệm đã bị Tướng Dương Văn Minh thảm sát, Thích Trí Quang vẫn tiếp tục xuống đường đuổi Mỹ về nước, tiếp tục chống đối Chinh Quyền Đệ Nhị VNCH với mục tiêu gì?
Trở lại giai đoạn thương đau đó, nếu chính quyền Đệ Nhị VNCH không cương quyết với Thích Trí Quang thì chắc chắn Nam Việt Nam đã bị bọn VC "Giải phóng" sớm hơn 1975 mười năm.
Kính mời qúi vị Phật Tử nói riêng và Tập Thể Người Việt Quốc Gia quyết tâm diệt Cộng trở lại vụ biến cố Miền Trung do Thích Trí Quang chỉ huy chiến trường bạo động:
Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã bị Tướng Dương Văn Minh lấy chỉ thị từ Thich Trí Quang thảm sát cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 2 thánng 11 năm 1963.
Ngay sau đó, Thích Trí Quang và Liên phái Phật Giáo họp tại chùa Xá Lợi vào 2 ngày 31 tháng 12 năm 1963 và ngày 1 tháng 1 năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật Giáo VN Thống Nhất và đã được ông Dương Văn Minh ký giấy cho phép hoạt động (Tất cả qúi Thầy chánh tâm cầu đạo và Sư Quốc Doanh (trong thời gian này chưa lộ mặt đã cùng chung một mái nhà Giáo HộịSau hai ngày ký giấy phép hoạt động cho GHPGVNTN, Tướng Dương Văn Minh trong ngày 16 tháng 1 năm 1964 đã ra lệnh thả hết tù Việt Cộng trong đó có tên gián điệp Vũ Ngọc Nhạ và tên Bảy Liêm chí huy tổ đặc công của VC tại Sài gòn Chợ Lớn chuyên ám sát và phá hoại chính quyền VNCH.
Người Mỹ biết Tướng Dương Văn Minh là "Đệ tử thứ thiệt " của Thích Trí Quang và lấy chỉ thị của Thích Trí Quang để thi hành do đó họ rất quan tâm trước hành động thả tù VC của Dương Văn Minh.
Trưóc hiện tình đó người Mỹ đã liên kết với Tướng Nguyễn Khánh để làm cuộc Chỉnh lý ngày 30 tháng 1 năm 1964 loại trừ những Tướng VN thân với Giáo Hội Phật Giáo lúc bấy giờ.Trước cuộc Chỉnh Lý chớp nhoáng của Tướng Nguyễn Khánh, Thích Trí Quang rất tức giận và hụt hẫng cho kế hoạch tiếp nối. Sau khi tiêu diệt Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cách thành công tốt đẹp, Thích Trí Quang chỉ chờ Tướng Dương Văn Minh thi hành kế hoạch tiếp nối thì Miền Nam cũng từ tay Tướng Dương Văn Minh đã bị "Giải Phóng" sớm hơn 10 năm.
 Nhưng người Mỹ đã phá tan kế hoạch của Thích Trí Quang và vì không đạt được mục tiêu chính trị, do đó Thích Trí Quang phản công người Mỹ bằng một công cuộc "Chống Mỹ cứu nước" và công khai đánh phá chính quyền Nam Việt Nam và Người Mỹ dưới cái lốt Áo Cà Sa.
Kính mời qúi vị Phật Tử nói riêng và Tập Thể Người Việt Quốc Gia quyết tâm diệt Cộng trở lại vụ biến cố Miền Trung do Thích Trí Quang chỉ huy chiến trường bạo động:Trong cuốn “Việc Từng Ngày" của học giả Đoàn Thêm đã có ghi chép rằng:
Ngày 27 tháng 3 năm 1964 Thích Trí Quang ra lệnh thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tại Huế. Sau đó thành lập thêm Lực Lượng Tranh Thủ cách Mạng (LLTTCM) với mục đích đấu tranh bằng vũ trang bạo động với mục đích chiếm được Thừa Thiên Huế. Sau khi chiếm được Thừa Thiên Huế thì đã có Hội Đồng Nhân Dân Cứu Quốc tiếp quản và cai trị (Mô Phật).
Ngày 20 tháng 11 năm 1964 Thích Trí Quang cùng một số họ Thích khác mở đầu một cuộc tuyệt thực để xách động Phật tử tại Sài Gòn và quần chúng đến biểu tình tại Toà Đại Sứ Hoa Kỳ. Trong cuộc biểu tình này có khẩu hiệu đòi hỏi "Hãy để cho dân tộc VN tự quyết".
Ngày 23 tháng 11 năm 1964 Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích Trí Quang đã điều động và chỉ huy một đoàn biểu tình gồm Thanh niên Sinh Viên Phật Tử kéo đến Phòng Thông Tin Mỹ Tại Huế, đốt cháy thư viện Mỹ. Phó lĩnh sự Mỹ là ông Anthony Lake đến chửa cháy đã bị ném đá khủng khiếp.Ngày 8 tháng 3 năm 1965 trong khi các toán quân Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đầu tiên đổ quân tại Đà Nẵng thì Thích Trí Quang chỉ thị Thích Quảng Liên mở một cuộc thuyết pháp và trong buổi thuyết pháp đó đã kêu gọi là Mỹ không được đổ bộ đến VN và đòi hỏi vấn đề nam VN phải để cho người VN tự quyết.
Ngày 9 tháng 4 năm 1965 Hội thảo tại Dinh Gia Long giữa Quốc Trưởng, Thủ Tướng và Chủ Tịch Hội Đồng Quốc Gia Lập Pháp về cuộc khủng hoảng chính trị do Phật Giáo VNTN dưới sự điều hướng của Thích Trí Quang gây ra.Để ổn định tình hình tại Nam VN do Thích Trí Quang thao túng qua chiếc áo cà sa một chính quyền Quân Sự đã ra đời qua sự thành lập của Hội Đồng Tướng Lãnh và Trung Tướng Nguyễn văn Thiệu giữ chức Uỹ ban Lãnh Đạo Quốc Gia, Thiếu Tướng Không Quân Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Ngày 21 tháng 3 năm 1966 Thích Trí Quang điều động Thanh niên, sinh viên Phật tử xuống đường, biểu tình liên miên chống " Chính quyền Quân phiệt" Nguyễn Văn Thiệu Nguyễn Cao Kỳ và chống Mỹ không cho yễm trợ chính quyền Nam VN (Tu sao không ở trong chùa mà sao cứ đi gây rối cho chính quyền miền Nam chi vậy hả Thích Trí Quang. Thiệt tình).
Ngày 13 tháng 3 năm 1966 Thích Trí Quang chỉ thị cho Viện Hoá Đạo họp báo và ra lệnh cho chính quyền Nam VN là các tướng nào có công với cách mạng (là lật đổ cơ cấu đệ nhất VNCH và giết TT Ngô Đình Diệm như Tướng Dương Văn Minh lúc bấy giờ ở nước ngoài hay ở trong nước như Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Trần văn Đôn, Tướng Mai Hữu Xuân ,Tướng Lê Văn Kim phải được trở lại quân đội để lập chính phủ đoàn kết (Mô phật không biết Thích Trí Quang tu cái kiểu gì đây?)
Ngày 31 tháng 3 năm 1966 Thích Trí Quang qua danh hiệu PGVNTN Ấn Quang đã xách động thanh niên sinh viên Phật tử đã tổ chức một cuộc biểu tình vĩ đại trước chợ Bến Thành  ngay tại Quảng Trường Quách Thị Trang với những biểu ngữ "Down with U.S. Obstruction. We want independence” và hình nộm của hai Tướng Thiệu Kỳ bị treo trước pháp trường cát trước chợ Bến Thành (Không biết Thích Trí Quang có vừa tụng kinh cầu siều vừa muốn giết 2 tướng Thiệu Kỳ không nhi???)Cũng cùng trong ngày đó, tại Đà Nẵng, tại Huế cũng có biểu tình với những câu khẩu hiệu như trên).
Ngày 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 1966 Lực Lượng Tranh Thủ Cách mạng của Thích Trí Quang tổ chức biểu tình đồng loạt và hô to khẩu hiệu " Đuổi Mỹ về nước" (cái này sao giống y chang VC với chiêu bài Chống Mỹ cứu nước phải không qúi vị)
Ngày 4 tháng 4 năm 1966 Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích Trí Quang biểu tình đốt cháy Đài Phát Thanh Đà Lạt.
Ngày 5 tháng 4 năm 1966 tại Huế và tại Đà Nẵng, Lực Lượng Tranh Thủ cách mạng của Thích Trí Quang đã võ trang dao gậy để chận đường vào thành phố Đà Nẵng . Bác Sĩ Mẫn đệ tử thứ thiệt của Thích Trí Quang Thị trưởng Đà Nẵng đã đem 400 binh sĩ theo Lực Lượng cách mạng của Thích Trí Quang đóng quân tại chùa Phổ Đà (Lại Phổ Đà tổ chức đại hội tiếm danh) xách động quần chúng dao gậy chống lại chính quyền. Cũng cùng ngày đó tên Bác Sĩ Mẫn đệ tử thứ thiệt của Thích Trí Quang đã bị cách chức và bị bắt.
Ngày 8 tháng 4 năm 1966 Lực Lượng Tranh Thủ cách Mạng của Thích Trí Quang nhất định đòi hỏi chính quyền của 2 Tướng Thiệu Kỳ phải rút lui.
Ngày 9 tháng 4 năm 1966 sau khi Tướng Tôn Thất Đính được cử ra Huế thì ngày 17 tháng 4  Thích Trí Quang bay từ Sài Gòn ra Huế để trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh bằng bạo lực và cũng trong ngày 17 tháng 4 đó Lực Lượng Tranh Thủ Cách Nạng của Thích Trí Quang đã bắt giữ ông Nguyễn Hữu Chí, Tỉnh Trưởng Tỉnh Quảng Nam và ông Quận Trưởng Quận Hoà Vang cùng một số rất đông được coi là thân chính quyền Quốc Gia.
Ngày 16 tháng 5 năm 1966 Tướng Đính đào ngũ vì vắng mặt không có lý do bỏ nhiệm sở do đó chính quyền Trung Ương đã điều động Tướng Huỳnh Văn Cao ra thay thế Tướng Đính. Vừa khi máy bay của trực thăng chở Tướng Cao đáp xuống thì một Thiếu Úy Phật tử tên Nguyễn Đại Thức đã nổ súng bắn máy bay trực thăng. Xạ thủ của trực thăng sợ Thiếu uý đó nổ súng giết Tướng Cao nên đã hạ Thiếu uý đó tại chỗ. Hai ngày sau, Thích Trí Quang ra lệnh cho sinh viên Phật tử khiêng xác của Thiếu Uý Thức đi cùng khắp thành phố Huế với mục đích gây ấn tượng căm thù Mỹ để xách động quần chúng xuống đường cướp chính quyền.
Ngày 20 tháng 5 năm 1966 Quân Đội của Chính phủ VNCH không thể để cho Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích trí Quang ngang nhiên nổ súng bắn giết trong thành phố nhất là bắn hạ một chiếc máy bay quan sát L19 trong khi Lực Lượng Tranh Thủ của Thích Trí Quang khai pháo tấn công chính quyền VNCH tại chùa Vĩnh Hội Đa Nẵng.
Trước sự bắn giết dân chúng một cách vô tội vạ của Lực Lượng Tranh Thủ Cách Mạng của Thích Trí Quang. Quân đội của chính quyền địa phuơng đã trực diện công khai đối đầu với sự bạo động bằng võ trang của LLTTCM của Thích Trí Quang.

Thích Trí Quang bèn gọi Tổng Thống Johnson yêu cầu can thiệp. Đòi Mỹ phải bảo vệ Thích Trí Quang nếu không Thích Trí Quang sẽ phá nát phi trường Đà Nẵng. Đồng thời Thích Trí Quang đòi hỏi chính quyền phải rút quân ra khỏi Đa Nẳng và bắt buột Thiệu-Kỳ phải từ chức ngay ( Mô Phật tu cái kiểu chi ri không biết?) .
Ngày 21 tháng 5 năm 1966 cảnh sát đã tịch thu rất nhiều truyền đơn đòi đưa Thích Trí Quang lên làm Tổng Thống và Ráo sư ý quên Giáo Sư Trần Quang Thuận làm Thủ Tướng (Mô Phật còn ai thắc mắc về GS Trần Quang Thuận nữa không? và Tại sao Thích Tuệ Sỹ phải nhất quyết đòi đưa GS Trần Quang Thuận thay thế Ông Võ Văn Ái) .
Ngày 25 tháng 5 năm 1966 Thích Trí Quang lần thứ ba lại kêu gọi Tổng Thống Johnson và Quốc Hội Mỹ ủng hộ Phật Giáo VN Thống Nhất Ấn Quang và đừng có ủng hộ chính phủ Thiệu- Kỳ (Sao lạ vậỵ Thích Trí Quang biểu tình liên miên chống Mỹ cứu nước sao lại đi kêu gọi Mỹ giúp đỡ? Cái này người ta gọi là gì thưa qúi vị? Vừa đánh, vừa đàm phải không?)
Tội nghiệp Thích Trí Quang kêu Mỹ 3 lần mà Mỹ chả thèm trả lời trả vốn chi cả.Cũng trong ngày 25 tháng 5 năm 1966 một Đại Đức "tu" ở chùa Bạc Liêu bị Cảnh Sát bắt đã cung khai là Cán bộ của Mặt Trận Giãi Phóng Miền Nam, có nhiệm vụ sửa soạn chiến dịch " Nước Lũ" của VC kéo Phật Tử ùa về Sài Gòn cướp chính quyền.Trong cuộc “đại náo bạo động võ trang" của Thích Trí Quang, Thượng Tọa Thích Tâm Châu đã nhiều lần can gián, nhưng Thích Trí Quang có công tác riêng, do đó sự ôn hoà của Thích Tâm Châu là con đường trở ngại cho Thích Trí Quang.
 Do đó Thích Trí Quang xài chiêu “Tiên hạ thủ vi cường” gieo nghi ngờ vào các Thích khác bằng cách cho rằng Đại Đức Thích VC Nhất Trí là do Thích Tâm Châu mật chỉ với cảnh sát để bắt.
Từ đó Phật Giáo VN Thống Nhất đã chia hai phe: Việt Nam Quốc Tự do Thượng Toạ Thích Tâm Châu lĩnh đạo, và Ấn Quang do Thích Trí Quang cầm đầụ
Ngày 3 tháng 6 năm 1966 nhóm Tăng Ni Phật Tử phản đối chính sách ôn hoà của Thích Tâm Châu và Thích Trí Quang ra thông cáo Thích tâm Châu chỉ là kẻ thừa hành. Sau đó cà Thích Tâm Châu từ chức cùng với Thích Hộ Giác.
Ngày 6 tháng 6 năm 1966 Thích Trí Quang vẫn phát động Phong Trào Chống chính phủ QG và kêu gọi Phật tử đem bàn thờ Phật xuống đường để cản lối đi trong thành phố hầu làm trở ngại lưu thông.Nhận thấy hành động của Thích Trí Quang đã làm cho chính quyền bất ổn, xã hội bất an, đời sống dân chúng càng ngày càng xáo trộn trong khi Cộng sản Bắc Việt đang sửa sọan tấn công.
Do đó Thiếu tá An Ninh Quân Đội Chu Văn Sáng đã đề nghị bắt Thích Trí Quang giải về Sài gòn thì mới ổn định được tình thế.
Ngày 21 tháng 6 năm 1966 Thích Trí Quang được đưa về Bịnh Viện của BS Tài trên đường Duy Tân và có Cảnh Sát canh giữ bên ngoàịKính thưa Qúi Vi... bài viết đã quá dài và độc giả cũng đã phàn nàn như vậỵ Anh Bùi Đạt Chủ Tịch câu Lạc Bộ Lính ở Houston Texas nói mỗi lần đọc bài của chúng tôị mất 15 phút ngồi trên NET. Cho nên yêu cầu viết ngắn lại.
Do đó chúng tôi xin dừng lại ngang đây và trong kỳ tới chúng tôi sẽ bàn tiếp kế hoạch thứ hai của CSVN trong việc chiếm GHPGVNTN để Biến Đạo thành Đảng hầu sau này có bị toàn dân VN lật đổ thì bọn CS sẽ cạo đầu bận áo cà sa trốn vào chùa cho qua cơn tai nạn để sau đó ra sao thì qúi vị biết quá rồị VC mà, như con đỉa hút máu có bao giờ chịu nhả ra.
Chúng tôi cũng sẽ bàn tới cái chết của Thích Trí Thủ có nghi vấn do Thích Trí Quang đầu độc cũng như Thích Trí Quang đã ra lệnh bắt cố Hoà Thượng Thích Thiện Minh và đã bị Công An VC đánh cho tan xương, nát thịt, vỡ óc, chết tức tưởi vì không chịu giải tán GHPGVNTN như Thích Trí Quang chỉ thị.
Đồng thời chúng tôi cũng sẽ nói đến nghi vấn về sự liên hệ cha con? Chứ không phải Cậu cháu của Thích Trí Quang (tên tục Phạm Văn Quang ở Lệ Thủy Quảng Bình) và Thích Tuệ Sỹ (Tên tục Phạm Văn Thương quê quán Quảng Bình) đang cầm đầu Thân Hữu Già Lam cùng Lê Mạnh Thát đang viết lại giáo lý nhà Phật (thành giáo lý nhà Hồ) cùng Ráo Sư Trần Quang Thuận Thủ tướng hụt của Thích Trí Quang trong công cuộc cướp chính quyền Nam VN bất thành trong những năm 1963,1964, 1965 và 1966. Đó là những nhân vật đang điều hợp Phật Giáo Về Nguồn và Đại hội Tam Hợp sắp tổ chức nay mai tại Việt Nam.
Trên đây chúng tôi xin trả lời một số độc giả là Phật giáo ta không phải lung tung mà là đang ở trong cơn pháp nạn.

Pháp nạn hôm nay của GHPGVNTN cũng là Quốc nạn cho dân tộc VN như tác giả Đinh Nguyên đã trình bày trước đây.
Tôn Nữ Hoàng Hoa

Monday, April 7, 2014

Thư trong nước

Thư trong nước: Xin chân thành hỏi các vị đại biểu Quốc hội

Nhóm Công an - Yết Kiêu – Trần bình Trọng: Bạn dân Xin chân thành hỏi các vị đại biểu Quốc hội
Họp quốc hội. Ảnh TTXVN
Chúng tôi, nhóm sỹ quan trẻ làm việc tại bộ công an, trong các tổng cục, theo dõi các cuộc họp quốc hội, nay muốn đặt ra câu hỏi, vì sao các đại biểu thường chất vấn các bộ trưởng kinh tế, tài chính, y tế, giáo dục, giao thông, lao động … nhưng lại không thấy chấn vấn bộ trưởng công an?
Có vẻ như gần 500 đại biểu không quan tâm gì nhiều đến an ninh xã hội, trong khi chính an ninh và trật tự xã hội đang làm cho lòng dân khắp nơi không yên.
Các ông bà nghị ta không thấy lo lắng ái ngại ư, khi lẽ ra công an phải là bạn dân, phải là lực lượng thương dân, gần dân, “thức ban đêm cho dân ngủ ngon”, nhưng nay đã trở thành nguồn bất an của xã hội. Thế có trớ trêu không, có đau xót không?
Bản tin trước chúng tôi đã phác họa chân dung ngài bộ trưởng của chúng tôi, ông Lê Hồng Anh – Út Heo, Út Béo Ỵ, Út Hề Hề, do chỉ trong một ngày từ dân thường phóc lên đại tướng, không 1 ngày tập luyện, không 1 buổi học hành chuyên môn ngành nghề công an – an ninh – phản gián – hình sự và tội ác học như chúng tôi. Do đó ngài bộ trưởng có vẻ hiền khô, cứ hề hề, ăn ngon ngủ kỹ, ngáy khò khò, giao ban toàn ngủ gật, không bao giờ giơ tay phát biểu – trong bộ chính trị, trong chính phủ cũng như trong quốc hội – do chính người tin cẩn trong phòng bí thư của bộ trưởng tiết lộ cho nhóm chúng tôi – , để mặc cho lực lượng thoái hóa và biến chất trong suốt 10 năm ròng. Ông Út đại tướng công an vô tích sự – như chúng tôi trong ngành nhận định, đã được đá lên chức cao hơn là thường trực ban bí thư trung ương đảng nhiều quyền thế hơn, thật là điều đáng lo cho đảng CS vậy. Trong khi đó bộ trưởng thay ông Út là tướng Trần Đại Quang cũng tỏ ra không hơn gì ông Út, vẫn ù lỳ ngậm miệng ăn tiền. Ông Quang còn tệ hơn ông Út ở tác phong quan liêu và thiếu trung thực thành cố tật, lại chúa bè phái.
Mới sáng thứ hai 12/11 vừa qua, bà cụ dân oan Hà Thị Nhung 76 tuổi đã chết tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng khi nhóm công an quận Ba Đình xông vào đàn áp, cụ không phải là nạn nhân đầu tiên của những người “thức đêm cho dân ngủ ngon”. Nếu như trong mấy năm qua hàng chục công dân chết oan trái trong trụ sở công an do đàn áp, đánh đập, chửi bới, chụp mũ, vu cáo được đưa ra giải quyết công bằng theo luật, giáo dục trong ngành thì các vụ án sau rất có thể đã không xảy ra.
Chẳng lẽ không có đại biểu quốc hội nào động lòng trước cái chết của Cụ Đặng Thị Kim Liêng mẹ cô Tạ Phong Tần, từng là sỹ quan công an, cô hiện nằm trong tù với bản án nặng nề vô lý 10 năm tù giam và 5 năm quản thúc.
Chúng tôi mong mỏi vô cùng là ngay phiên họp quốc hội này có cuộc hỏi và trả lời của bộ trưởng công an. Sẽ có thể hàng vài chục câu hỏi cấp bách. Có thật công an đang sa sút, suy thoái hay không? Những biểu hiện suy thoái ra sao? Công an giao thông vẫn còn cái tệ là “anh hùng Núp” để làm tiền hay không? Công an đã dùng bạo lực đánh đập tra khảo, gây chết cho dân hay không? giải quyết đến đâu rồi? Có thật nhiều nơi công an thoái hóa liên kết với bọn xã hội đen và đã quen xưng hô với dân bằng mày tao, chúng mày chúng tao, thằng già kia, con mẹ nọ, tống cổ cả lũ lên xe …như bà con ta đã ghi âm được. Chuyện công an đạp giày vào mặt dân bộ công an nhận định ra sao?
Việc tuyển mộ đào tạo trong ngành ra sao? mới phát hiện tên « yêu tinh râu xanh » Vũ Văn Quỳnh mới 23 tuổi đã gây náo loạn ở cả vùng Tiên Lãng khi chuyên rình mò để cưỡng dâm các cô học sinh trong các nghĩa trang vắng vẻ. Ông nội, cha đẻ, bác và chú hắn đều là sỹ quan trong ngành công an, và chính hắn cũng ỷ lại vào chức quyền ấy để hoành hành táo tợn. Bộ công an có biết chuyện ấy không?
Rút ra kinh nghiệm gì cho toàn ngành, toàn lực lượng?
Công an có thật đã hư hỏng, mất dạy, thành kiêu binh được nuông chiều quá đáng hay không? So với Quân đội Nhân dân, công an lên cấp, vượt cấp quá nhanh, tăng lương, tăng phụ cấp nhanh hơn, cấp nhà ở, đất rộng và nhiều gấp bội phần so với quân đội, thế có hợp lý không? tỷ lệ cấp tướng, tá so với số quân cũng có tỷ lệ gấp 3 lần quân đội, thế có công bằng không ? Xin ví dụ xưa thời chiến, chỉ có 1 vài anh thiếu úy trung uý ở một phường lớn, 1 đại úy công an ở một quận, 1 trung tá ở một tỉnh trung bình, thế mà nay một phường nhỏ cũng có Thiếu tá, Trung tá chỉ huy. Riêng ở Bộ công an và 8 Tổng cục thuộc bộ cùng Bộ tư lệnh cảnh vệ và bộ tư lệnh cảnh sát cơ động đã có hơn một trăm viên tướng. Mà tướng tài giỏi, thanh liêm thì cực hiếm, lừng danh tham nhũng hách dịch thì quá nhiều, như tướng Nguyễn Khánh Toàn, tướng Nguyễn Văn Hưởng … đều thành triệu phú đôla. Xin hỏi thanh tra của bộ, thanh tra chính phủ, ủy ban kiểm tra trung ương đảng làm gì trước tình cảnh này ? Và quốc hội có biết hay không.
Chúng tôi nhân danh sỹ quan trẻ trong ngành, nhân danh cử tri thủ đô, mong các đại biểu quốc hội của thủ đô và toàn quốc quan tâm, góp phần dọn dẹp vệ sinh một ngành trọng yếu, để công an khắp nơi trở thành thật sự là Bạn dân, luôn kính già yêu trẻ, tỉnh thức canh gác cho công việc làm ăn thuận lợi và giấc ngủ an lành của toàn dân, từ em bé đến cụ già thân yêu trong cả nước.
Nhóm Công an – Bạn Dân, Yết Kiêu – Trần Bình Trọng.
© Đàn Chim Việt

Sunday, April 6, 2014

Bia Đá Đợi Chờ, 39 Năm Sau. (Giao Chỉ)


Bia Đá Đợi Chờ, 39 Năm Sau. (Giao Chỉ)
 
Lễ khánh thành bức tường tưởng niệm bẩy vị anh hùng tuẫn tiết 30 tháng tư 1975 tổ chức 10 giờ sáng thứ bẩy ngày 5 tháng 4-2014. Tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose CA 95112. Lối vào trên đường Pheland. Tôi riêng nghĩ rằng dù gọi là bức tường nhưng ý nghĩa như một mộ bia tập thể cho 7 vị anh hùng. Gọi là khánh thành nhưng mang hình thức một ngày tang lễ muộn màng gần nửa thế kỷ. Tôi viết bài này tặng cho các bạn trẻ đã hoàn tất một công tác ý nghĩa từ cả hai cõi âm dương.

Tháng tư 75, năm cùng tháng tận.

Tháng 4 năm 2014 tại Hoa Kỳ tôi ghi lại chuyện 39 năm về trước. Cuối tháng 12 năm 1974 Bắc quân dốc toàn lực tổng tấn công miền Nam. Trận mở đầu thăm dò đánh Phước Long. Địch vừa đánh vừa nhìn qua Hoa Thịnh Đốn. Hoa Kỳ án binh bất động. Sau Paris, tù binh đã trở về, quốc hội Mỹ quay lưng nhìn về hướng khác. Khi Sông Bé, thị trấn đầu tiên của Nam Việt Nam kêu cứu. Saigon chỉ còn trong tay một phần của liên đoàn 81 để gửi lên tiếp viện. Những người lính biệt kích anh hùng mỏi mệt vừa từ mặt trận Phước Thành được kéo về tưởng chừng sau 3 tháng hành quân nay tạm nghỉ. Nào ngờ lại được trực thăng vận xuống giữa vùng lửa đạn để đánh trận tuyệt vọng tại Phước Long. Ngày 6 tháng 1 năm 1975 Phước Long hoàn tòan thất thủ. Đây là trận mở đầu cho cuộc chiến tranh kết thúc. Kể từ Genève 54 chia đôi đất nước, sau 21 năm từ chiến tranh chính trị đến chiến tranh quân sự, miền Nam lại thua trận chỉ trong 3 tháng mở đầu của năm 1975.

Sau Phước Long, Saigon trải qua cái tết 75 buồn bã rồi cùng một lượt các chiến trường nổ súng. Ngoại trừ miền Tây tạm yên, các mặt trận đều bị tấn công. Từ miền Đông, lên cao nguyên, xuống duyên hải và ra miền Trung. Năm sư đoàn cộng sản tấn công Ban Mê Thuộc ngày 1 tháng 3-1975. Ngày 8 tháng 3-1975 thêm 5 sư đoàn cộng sản tấn công Huế, cùng 1 lượt 3 sư đoàn đánh vào Quảng Ngãi.

Riêng Ban Mê Thuộc hoàn toàn do cộng sản kiểm soát ngày 14 tháng 3-1975. Qua ngày hôm sau tổng thống Nguyễn văn Thiệu ra Cam Ranh đưa quyết định bất hạnh nhất của đời binh nghiệp khi ra lệnh rút quân đoàn II. Tiếp theo là một loạt các lệnh bất thường cho quân đoàn I.

Hà Nội vừa đánh vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn. Saigon vừa rút lui cũng vừa thăm dò Hoa Thịnh Đốn.

Mọi việc không còn như xưa. Ngân khoản viện trợ cuối cùng của Hoa Kỳ chỉ đủ dành để cất lều và dự trù nuôi ăn cho hàng ngàn người tỵ nạn đến Mỹ. Qua tháng 4 phòng tuyến cuối cùng của Saigon tan vỡ tại Xuân Lộc. Sau khi ban hành những quyết định sai lầm tai hại khôn cùng, tổng thống Thiệu từ chức với bài diễn văn oán trách đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng ông cũng vẫn được đồng minh chở đi kịp thời ra khỏi nước. Phó tổng thống Trần văn Hương lên cầm quyền cố giữ cho đủ 1 tuần rồi thể theo yêu cầu của quốc hội giao quyền cho đại tướng Dương văn Minh.

Lúc đó nước đã đến chân, không còn giải pháp nào để lựa chọn. Hải quân VNCH trước khi ra khơi lần cuối đã cử đề đốc tham mưu trưởng Diệp Quang Thủy lên gặp ông Minh để mời xuống tàu. Đại tướng Minh với chút khí phách Nam Kỳ đã từ chối để ở lại nhận ngàn cân tủi nhục. Lúc đó là chiều 29 tháng 4-1975.

Cũng vào chiều 29 tháng 4-1975 được tin vợ con đã vào Tân Sơn Nhất để di tản, tướng Phạm văn Phú, tư lệnh quân đoàn II uống thuốc tự vận tại nhà. Trên đường vào phi trường, được tin chồng tự vẫn, bà Phú và con quay trở về đưa chồng vào nhà thương Đồn Đất (Grall).

Sáng 30 tháng 4 khi tướng Minh còn đang soạn bài kêu gọi buông súng, tướng Phú đã qua đời. Ông chết trước khi có lệnh đầu hàng. Tướng tư lệnh quân đoàn II tự vẫn để trả món nợ của riêng ông về trách nhiệm mặt trận cao nguyên.Tướng Phạm văn Phú, nguyên là tù binh trận Điện Biên Phủ, quê Hà Đông, khi chết ông 47 tuổi. Ông ra đi trước khi chiến tranh chấm dứt được vài giờ. Gia đình đã trở lại chôn cất ông và sau đó kẹt lại tại Việt Nam.
http://vietbao.com/images/file/kiQL3BcZ0QgBANhG/21.jpgBia đá tưởng niệm.


Những cái chết anh hùng.

Trong lịch sử kháng Pháp của dân tộc Việt đã có biết bao nhiêu anh hùng tuẫn quốc. Năm 1867 trong Nam có cụ Phan thanh Giản tự vẫn để nhận tội làm mất 3 tỉnh miền Tây. Năm 1873 cụ Nguyễn Tri Phương tự vẫn ở ngoài Bắc, tiếp theo năm 1882 tổng đốc Hà Nội, cụ Hoàng Diệu tự vẫn vì không giữ được thành.

Chuyện bây giờ ở thời cận đại là cái chết của các anh hùng Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 4-1975. Trong cái tháng 4 oan nghiệt đó hàng trăm quân cán chính đã tự vẫn. Tuy nhiên để ghi nhận vào bảng vàng, bia đá, chúng ta cần có đủ hình ảnh, nhân chứng, tài liệu thật chính xác.

* Cái chết mở đầu trước giờ cuối cùng của cuộc chiến là của thiếu tướng Phạm văn Phú. Tiếp theo ngay sau khi đại tướng Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng trưa 30 tháng 4-75 thì người tự vẫn công khai và đầu tiên là trung tá cảnh sát Nguyễn văn Long, quê ở Huế 56 tuổi. Ông tự tử bằng súng lục lúc 11:30 ngay trước tượng thủy quân lục chiến Việt Nam, ngó qua quốc hội. Những người vô danh và anh nhà báo Pháp chở xác ông vào nhà thương Đồn Đất của Pháp. Tình cờ tướng Phú cũng chết tại nhà thương này vào buổi sáng cùng ngày.

Trong khi tại Saigon có 2 chiến binh tự sát thì trung tá Đỗ Đình Vượng dẫn trung đoàn về bộ tư lệnh sư đoàn 5 tại Bến Cát. Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ tư lệnh sư đoàn mời các sĩ quan tập trung về ăn cơm trưa. Mọi người không còn ai bình tĩnh mà ăn uống. Riêng ông Vỹ ăn đủ 3 bát cơm thường lệ rồi cho lệnh các đơn vị trưởng tùy nghi. Ông lui vào phòng riêng dùng súng tự vẫn. Ông là người thứ ba.

Tướng Lê Nguyên Vỹ quê Sơn Tây chết năm 42 tuổi. Vợ con di tản qua Mỹ mấy tháng sau mới biết tin. Gia đình sau này bốc mộ đem về quê cũ tại Sơn Tây, Bắc Việt. Bàn thờ ông để trong đình làng ghi rõ là Lê tướng công, tư lệnh sư đòan số 5 quân đội Saigon.

Người thứ tư tuẫn tiết bằng thuốc độc là chuẩn tướng Trần văn Hai tư lệnh sư đoàn 7 tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho. Trước khi ra đi vào chiều 30 tháng 4-1975 tướng Hai có điện thoại từ giã tướng Hoàng văn Lạc tư lệnh sư đoàn 9. Ông Hai quê Gò Công, qua đời năm 50 tuổi.

Người thứ năm là tướng Lê văn Hưng, tư lệnh phó quân đoàn 4, tự vẫn bằng súng vào buổi tối 30 tháng 4-1975. Ông Hưng lúc qua đời có đông đủ vợ con và các sĩ quan cận vệ. Lúc đó khoảng 9 giờ tối. Ông quê ở Gia Định và ra đi năm 42 tuổi.

Vị tư lệnh quân đoàn 4, thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam đã sống 1 ngày 30 tháng 4 rất dài. Riêng ngày 29 ông đã nhận lệnh đón phái đoàn chính phủ VNCH từ Saigon xuống, nhưng rồi lệnh hủy bỏ. Suốt ngày 30 tháng 4, ngay sau lệnh đầu hàng ông đã có dịp gặp phái đoàn cộng sản 2 lần nhưng rồi lại cho biết chưa sẵn sàng. Chiều 30 tháng 4 ông còn đi thăm thương binh tại quân y viện Phan thanh Giản. Qua đêm không ngủ, sau khi thắp hương thỉnh chuông lạy Phật, tướng Nguyễn Khoa Nam lấy súng lục tự tử vào sáng 1 tháng 5-1975. Ông Nam sinh quán Thừa Thiên, chết độc thân năm 48 tuổi.

Người sau cùng ghi danh trên bảng tưởng niệm là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Ông Cẩn chiến đấu đến giờ phút cuối trong ngày 30 tháng 4-1975 và bị bắt tại Chương Thiện. Ông là một trong các sĩ quan đã tiếp tục chiến đấu. Đại tá Hồ Ngọc Cẩn bị bắt giam, bị tra tấn hành hạ suốt 4 tháng. Ông bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 4 tháng 8-1975. Ông Cẩn quê Rạch Giá, khi qua đời trẻ nhất 37 tuổi. Cùng bị xử bắn có 4 vị quận trưởng Chương Thiện và các trưởng ty. Tiểu khu Chương Thiện quyết chiến đến giây phút cuối nên bị xử bắn nhiều nhất.
http://vietbao.com/images/file/8SsW3RcZ0QgBADdI/22.jpgBia đá tưởng niệm.


Bia Đá ngàn thu.

Trong chiến sử thế giới, hai bên tử sĩ hy sinh là chuyện thường tình. Khi nước Nhật bại trận, các sĩ quan theo tinh thần võ sĩ đạo truyền thống, nhiều người tự vận. Chuyện này đã được thế giới biết đến.

Tuy nhiên, sau chiến tranh Việt Nam, con số sỹ quan, và chiến binh tự vẫn hàng trăm người, quả thực là điều đáng kính phục. Đặc biệt là cái chết của cấp chỉ huy. Xúc động vì những hy sinh cao cả đó, biệt đoàn văn nghệ Lam Sơn tại San Jose đã vận động gây quỹ và lập bức tường tưởng niệm để hình ảnh các anh hùng QLVNCH được lưu lại với bia đá ngàn thu. Nguyên khối đá chính nặng 8 ngàn pounds. Tất cả 3 khối đá, bệ đá và khối cement chân bệ tổng cộng trên 30 ngàn tấn. Trên bia đá khắc hình ảnh 7 vị anh hùng. Hai bên là lời tri ân bằng Anh ngữ và Việt Ngữ. Khối đá quý như là 1 loại cẩm thạch vĩ đại từ Ấn Độ được cắt sẳn theo kích thước và chở qua California. Tại xưởng làm mộ bia có máy tạo hình. Lại thêm chuyên viên từ Phi Luật Tân làm bằng tay hình ảnh 7 vị anh hùng VNCH. Phía sau là hình bóng các chiến binh Việt Nam.
http://vietbao.com/images/file/4Mm53hcZ0QgBAGQw/23.jpgBia đá tưởng niệm.


Lễ khánh thành

Buổi lễ khánh thành sẽ là 1 ngày hết sức đặc biệt với sự tham dự của các quan khách Việt Mỹ. Ban tổ chức đã phổ biến thư trên báo chí, radio, TV và trên internet. Địa điểm tại Viện Bảo Tàng Việt Nam số 1650 Senter Rd, San Jose- CA 95112. Lối vào trên đường Pheland. Tổ chức từ 10 giờ sáng thứ bẩy ngày 5 tháng 4-2014. Nếu không có gì trở ngại, kính mời quý bà, quý cô mặc áo dài, quý vị cựu quân nhân mặc quân phục. Chương trình sẽ thực hiện bằng Anh và Việt ngữ.

Mở đầu nghi lễ chào cờ mặc niệm sẽ do toán quốc quân kỳ của US Army. Ban quân nhạc Hoa Kỳ sẽ hòa tấu quốc ca Hoa Kỳ và quốc ca Việt Nam Việt Nam Cộng Hòa. Phần nghi lễ quan trọng nhất là việc mở các tấm vải phủ trên bức tường. Ban tổ chức thực hiện 7 bóng bay lớn có viết chử thảo danh tánh các vị anh hùng.Theo thứ tự ngày giờ hy sinh từng trái bóng và hương linh anh hùng sẽ bay lên trời xanh.

Mỗi bóng bay lên là có súng nổ. Khởi đầu là tướng Phạm văn Phú và sau cùng là đại tá Hồ ngọc Cẩn. Phần ý nghĩa nhất cần ghi nhận là lần đầu tiên ban tổ chức mời được tất cả đại diện các gia đình của 7 vị anh hùng từ bốn phương về tham dự. 7 vị tướng lãnh và cấp chỉ huy có danh trên bảng tưởng niệm đã trở thành các anh hùng bất tử tượng trưng cho cả QLVNCH. Đặc biệt các cựu chiến binh của quân đoàn 4, của sư đoàn 7, của tiểu khu Chương Thiện, của sư đoàn 5 BB, của cảnh sát quốc gia đều có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng, một chút riêng tư trong tình huynh đệ chi binh.

Bài báo này xin gửi đến các bạn như là 1 bản báo cáo và 1 lời ân tình, xin mời đến dự.Bên cạnh bức tường tưởng niệm, còn có 1 biểu tượng hết sức ý nghĩa. Có thêm phần triển lãm một mộ bia lấy từ nghĩa trang quân đội đem về năm 2004.

Nếu chưa từng về thăm nghĩa trang quân đội, các bạn sẽ có dịp ghé đến đây thắp 1 nén hương cho người anh hùng tử sĩ vô danh. Một bia mộ đặt ngay tại Việt Museum nhân dịp khánh thành bức tường tưởng niệm. Đây là lễ giỗ 30 tháng 4 dành cho các anh hùng tuẩn tiết. Lễ giỗ muộn màng mà cộng đồng làm chung với gia đình tang gia 39 năm sau. Xin hãy đến 1 lần với buỗi lễ và sẽ nhớ suốt đời vì đã mang ý nghĩa thiêng liêng nối kết mối liên hệ giữa người ra đi trong lòng đất quê hương và người ở lại hải ngoại đến giây phút này. Bia đá đợi chờ, 39 năm sau.