Friday, July 11, 2014

Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 3)

Hồ Chí Minh - một gián điệp hoàn hảo (Kỳ 3)

Huỳnh Tâm (Danlambao) - “Bác” được chọn vào cơ mật tình báo chính trị Hoa Nam với chỉ số đạt dưới âm, tuy nhiên vẫn được khảo thí vô cảm, huấn luyện những chuyên môn đặc biệt sắt máu, và phân nghiệm tâm lý “vô tổ quốc”. Hoa Nam đào tạo “Bác” từ con người ra cục đất vô sản, duy nhất trung thành với CPC Trung Quốc.


Đảng cộng sản Trung Quốc đại hội thường niên 1939 tại Diên An (延安). Bộ chính trị đảng và Quân ủy Trung ương (CPC), có Hồ Chí Minh (1) và Thiếu tướng Nguyễn Sơn (2) đồng tham dự. Nguồn: Hoa Nam. [1]
“Bác” hoạt động theo qui luật đã qui định của CPC Trung Quốc. Thuở ấy người Việt Nam sinh cư tại Trung Quốc, thấy “Bác” có một vị trí đặc biệt được gọi là cõi trời vỏ ốc bí mật của Diên An (延安). “Bác” ung dung, rộng tầm tay đưa ra thủ đoạn khai trừ tất cả những thành phần khác không cùng cánh, chỉ vì chiếm lấy vị trí đảng trưởng một địa phương, sau này cộng sản Việt Nam và thủ lĩnh cộng sản Đông Dương, bất cứ ai không đồng chí hay không đồng cánh đều bị thanh trừng, người ta tặng “Bác” mệnh danh “con thú rừng đáng sợ hãi”, chưa nói đến những người hoạt động chính trị yêu nước khác. Qui luật hành động của đảng “Bác” đều có tính toán, việc lợi thì đảng “Bác” thực hiện, bất lợi đảng “Bác” nhờ người khác hy sinh cho mình, vốn dĩ qui luật của đảng “Bác” không thành văn, trước sau lấy việc khủng bố làm phương tiện cứu cánh để cướp công thiên hạ mà tiến thân.

Nhân dịp tháng 5 năm 1965. Hội thơ tại thành phố Hoàng Sơn, tỉnh An Huy, Trung Quốc. (中国安徽省黄山市). Hôm ấy Đổng Tất Vũ (董必武) bí danh “Chương”, bình thơ khen Minh: “đồng chí thơ hay chữ tốt”. Nguồn: Hoa Nam. [2]
Theo hồ sơ của Hoa Nam, mật mã (雄花5478): “bản thân đồng chí Hồ Chí Minh, nhờ viết “thư pháp Hán” làm nên sự nghiệp, được Mao và Chu chiếu cố, cuối năm 1939 CPC Trung Quốc tín nhiệm, bổ nhiệm “Bác” đến khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây. Lãnh đạo chi bộ đảng người Choong tại biên giới Thượng Dương (上杨), Bả Mễ (把米), Bằng Tường (凭祥) Quảng Tây (广西), giáp biên giới Cao Bằng, Lạng Sơn Việt Nam. Đến năm 1940 Hồ Chí Minh được lệnh xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam xây dựng cơ sở, những hoạt động nổi đình đám nhất là tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập (越南独立) gọi tắt “Việt lập”, lưu hành ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Từ số đầu tiên phát hành ngày 01/08/1941 đến số cuối cùng 126 đình bản vào ngày 20/8/1945. Hầu hết “Bác” nằm dài trong tờ rơi, những bài viết không phản ảnh được nguyện vọng của nhân dân Việt Nam lúc bầy giờ.
Tờ rơi, truyền đơn có những mục lục chính, gồm Tiểu luận, Vườn văn, Vần thơ lẻ và Nhắn tin (gửi tin về Diên An). Khổ A5, giấy đôi của tập vở học trò A4, viết hai mặt trên 3.000 từ, khổ giấy quá nhỏ, với hạn chế không thể nào chen vào những bài viết chính trị, quân sự, văn hóa, văn nghệ, lịch sử v.v... Tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập, do “Bác” chỉnh sửa, “Bác” vừa làm chủ nhiệm, vừa viết bài, vừa trình bày, khoác lên người với cái tên thật to “tổng biên tập”, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng là những tay chân ấn loát, vào thời đó (1941), người dân gọi đơn giản là “tờ truyền đơn”.

Cuối năm 1941, những cố vấn tờ rơi của Hồ Chí Minh bí mật đến Thượng Dương (上杨), ngày 12/06/1941. Từ Trái: Đặng Tiểu Bình (邓小平), Từ Hải Đông (徐海东), Trần Quang (陈光), Niếp Vinh Trăn (聂荣臻), Trình Tử Hoa (程子华), Dương Thượng Côn (杨尚昆), La Chí Tường罗瑞卿, được mệnh danh những vị vua đầu tiên của Việt Nam王首道越南. Nguồn: Hoa Nam.
Cho thấy tờ rơi là một trong những bước khởi hành của Trung Cộng xây dựng sự nghiệp cho Hồ Chí Minh tại Việt Nam. Đến ngày 5 tháng 4 năm 1942, Hồ Chí Minh gửi cho nhóm cố vấn một báo cáo số 417: “Đề nghị cung cấp giấy mực và nhân sự ấn loát, hiện nay tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập đã phát hành được 3 số, mỗi số 100 bản”. [3]
Diên An yểm trợ cho Hồ tối đa mọi phương tiện ấn loát, tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập số 4 tăng bản in, đặt tại làng Ngằn Tẩy (địa danh này trước đây của Việt Nam), nay thuộc Tĩnh Tây (靖西) Trung Quốc. Mỗi tháng 3 kỳ, vào các ngày 1, 11, 21 mỗi kỳ 2 trang A5, 300 bản in /1 số. Lúc này “Bác” thường xuyên liên lạc với những địa chỉ Hoa Nam tại Long Bang Trấn (龙邦镇), Nhâm Trang Hương (壬庄乡), An Trữ Hương (安宁乡), Nhạc Vu Trấn (岳圩镇 ). Những Hoa Nam gốc Việt bốc thơm người chủ trương tờ báo Việt Nam Độc Lập, (thay vì tờ rơi). Cũng lúc này, Hoa Nam thừa dịp tâng bốc Hồ trở thành bậc “thánh hiền” Việt Nam đang xuất hiện tại biên giới, nhưng Hoa Nam không cho “đôn”. Nghĩa đen của người Hán “Ai đưa lên ngôi, người đó có quyền truất phế” đó là chuyện trò chơi “ngàn lẻ một đêm” của Trung Cộng Quốc. [4]
Tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập, do “Bác” viết tay nhiều hơn đánh máy, nét chữ vẫn con giun “đỏ” đang bò vào Việt Nam, quá ư thô kệch không khác tờ báo Thanh Niên mà Hồ đã phát hành tại Quảng Châu Trung Quốc, vào ngày 28/11/1926 đến 5/12/1926. “Bác” đang hạnh thông trên đường bí mật xâm nhập vào Việt Nam để thực hiện một người “giả chi-chi cũng giả”, tuy nhiên từng nét chữ là sự thực hiển nhiên không thể đồng hành với người giả như Hồ.
Tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập, lưu hành tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn. Từ số đầu tiên phát hành ngày 01/08/1941 đến số cuối 126, đình bản vào ngày 20/8/1945. Nguồn: Cục báo chí Hoa Nam.
Lần đấu tiên Việt Minh công bố thành lập Lữ đoàn Tuyên truyền Giải phóng quân, trên tờ rơi, tuyên truyền Việt Nam Độc Lập, số 126. Nguồn: Cục báo chí Hoa Nam.
“Bác” nhận lệnh của Mao thành lập phong trào “Gươm đao” tại Việt Nam. Tờ rơi, tuyên truyền Việt Nam Độc Lập, số 117, ra ngày 1/2/1942, loan tải nội dung bài thơ kêu gọi, vận động nhân dân, đập nát vật dụng sản xuất, và gia dụng đồng, sắt, thép đúc thành vũ khí gươm, đao, mã tấu v.v...
“Gươm dao ta 
Đem mài đi! 
Mài cho bén, 
Mài cho sắc...” [5] 
Ngoài ra tờ rơi, truyền đơn Việt Nam Độc Lập, ra ngày 11-10-1943, kêu gọi đồng bào biên giới đóng hụi chết. “Bác” viết ba câu thơ dị hợm có tính khẩn cấp:
“Ký ninh! Ký ninh! Ký ninh!
Ký ninh gì cũng được, vàng, trắng, bột đều quý.
Nhiều, ít đều quý”.
Đúng một tháng “Bác” vét hết “Ký ninh” tại ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, gửi đến Diên An cung cấp cho đảng Mao, đang bị sốt rét rừng, thiếu thuốc điều trị.
Tờ rơi, tuyên truyền Việt Nam Độc Lập, ra ngày 1-11-1943, có bài thơ:
“Việt-Nam Độc - Lập” thổi kèn loa.
Hoa Nam đem ra phê bình bởi “thổi kèn loa” (吹着音箱) đồng nghĩa dâm đảng theo văn hóa Trung Quốc. Mao sợ Hồ Chí Minh biến tờ rơi Việt Nam Độc Lập thành tờ khiêu dâm trong đảng, bởi bản thân của Hồ là một đề tài bén nhạy, bởi Mao phát hiện Hồ có ít nhiều liên hệ đồng tính luyến ái, Mao đang đau đầu.
Tiếp theo, ngày 18-2-1944, tờ rơi, tuyên truyền Việt Nam Độc Lập, loan tải ở cột nhất ba câu thơ:
“Chanh! Chanh! Chanh!
Nhà báo cần chanh
Anh em ủng hộ cho nhanh.”
Một lần nữa “Bác” thực hiện hoàn thành sứ mạng, vét hết “Chanh! Chanh!” trong ba tỉnh của Việt Nam, gửi gấp về mật khu Diên An, cung cấp cho đầu đảng Mao, dự trữ làm bánh kẹo mứt cho mùa Trung Thu năm sau. Mao chuẩn bị đẩy mạnh chương trình tuyên truyền khăn quàng đỏ Trung Cộng.
Tờ rơi Việt Nam Độc Lập, cũng làm nhiệm vụ áp phích, ở thời điểm khủng hoảng chính trị, tờ thông tin rơi đóng một vai trò quan trọng mà Hoa Nam đang vận dụng khai thác, phổ biến tối đa, đưa vào Việt Nam càng sớm càng tốt chủ nghĩa cộng sản. Đây cũng là thời cơ tốt để Hồ Chí Minh bôn ba làm những chuyện dối trá trước thiên hạ chưa hay biết, sự xuất hiện của Hồ tạo ra sân khấu cộng sản Việt Nam, sau này quá điêu linh, mà đảng “Bác” rêu rao rằng đổi mới!
Vào thời điểm 5 năm (1941-1945), “Bác” sống tại tỉnh Cao Bằng, ôm tờ rơi trừu tượng “Việt Lập”, phát hành số đầu tiên vào ngày 01/08/1941, đến số cuối cùng 126 đình bản vào ngày 20/8/1945, hầu hết ở thời gian này, “Bác” được Hoa Nam bố trí bảo vệ an ninh cẩn mật, ăn ngủ yên làm việc.
Lúc này có một diễn biến, tái sinh “Nhật ký trong tù”. “Bác” không chịu ở yên, một lần nữa để lòng gian trá, tự thay đổi đời thường bằng một ít huyền thoại cho tương lai tươi sáng hơn, từ vụn vặt đó “Bác” muốn tái tạo phiên bản mới “Nhật ký trong tù”.
Tuy nhiên hoàn toàn không hợp vời thời gian tư liệu của nhà tù Hương Cảng (29/8/1932 - 10/8/1933) đang lưu trữ. Và bản tái sinh “Nhật ký trong tù” (29/8/1942 - 10/9/1943) thêu diệt quá ấu trĩ, thứ nữa về mặc thời sự không kết nối với thời gian chủ nhiệm tờ rơi Việt Nam Độc Lập, bởi “Bác” đang ở tại làng Ngằn Tẩy ôm tờ rơi “Việt Lập”, cho đến ngày 20/8/1945 “Bác” mới chuyển đi nơi khác để chuẩn bị về Hà Nội.
Hầu như một khi “Bác” đã dấn thân vào lừa đảo quyết làm bất chấp, miễn sao thu hoạch, thế mới là “Bác” tạo ra một loạt những nhà tù trong trí não quá ư trừu tượng, “Bác” tài tình thật vừa phụ trách tờ rơi vừa ở tù cùng một địa danh, tại làng Ngằn Tẩy. Ngày nay không có những chứng minh nào logic hơn để biện hộ “Bác” bị hàm oan trong sự kiện quái dị “Nhật ký trong tù”.
Theo đảng cộng sản miêu tả, “Bác” ở tù tại tỉnh Quảng Tây (广西), và tỉnh Trùng Khánh (重庆) từ (29/8/1942-10/9/1943). Có phải Hồ Chí Minh muốn tự đào huyệt chôn xác cũ “Nhật ký trong tù” và đáng bóng lại xác mới của Hồ Chí Minh thế là quá lộ liễu ở giữa ban ngày.
Phiên bản, sao lục tập thơ “Nhật ký trong tù” vô chủ, viết từ ngày 29/8/1932 đến ngày 10/8/1933, hiện nay còn lưu trong tủ sách nghiên cứu của Hoa Nam. Khi sang đến tay “Bác” tập thơ khai man trẻ hơn 10 tuổi (29-8-1942 đến 10-9-1943). Ban dịch thuật và sao lục ngụy tạo những năm không tương xứng với ngày Nguyễn Tất Thành lao lý trong nhà giam Hương Cảng. Nguồn: Tư liệu Hoa Nam.
Chưa chi đã thấy đồng đảng “Bác” cháu, cùng nhau xạo miệng làm phiền dân tộc Việt Nam, lộ rõ thân xác “Bác” điêu ngoa “chi-chi cũng giả”, cho thấy nội bộ đảng bất minh không kết nối được dòng sử đảng theo thời gian hoạt động của “Bác”, bởi đảng dối trá quá thành hư cấu cả lịch sử Việt Nam:
“Vào tháng 8 năm 1942, “Bác” gặp khổ nạn, quá bi thương, bị cảnh sát huyện Quế Hệ Hương (桂系乡), bắt tại biên giới Trung-Việt, giam trong những nhà tù của Tưởng Giới Thạch, sau đó di chuyển đến nhà tù huyện Tĩnh Tây (靖西), Thiên Bảo (天保), Đức Bảo (德保), Điền Đông (田东), Bình Qùa (平果县), Phù Tuy (扶绥县), Vũ Ninh (武鸣), Tân Dương (宾阳), huyện Vĩnh (荣), Nam Ninh (南宁), Long Tuyền (龙泉), Điền Đông (东填), Quả Đức (绩德), Long An (龙安), Đồng Chính (龙安), Bào Hương, 在主, Lai Tân (谭丽), Liễu Châu (柳州), Quế Lâm ( 桂林) thuộc tỉnh Quảng Tây广西. Và Túc Vinh Vu (足荣圩) tỉnh Trùng Khánh (重庆), di chuyển đi, di chuyển lại trên 30 nhà tù của 13 huyện, và 2 tỉnh Quảng Tây, Trùng Khánh. Ra tù ngày 10 tháng 9 năm 1943. Bọn Quốc Dân Đảng Tưởng Giới Thạch ác thực, đày ải “Bác” trải qua 1 năm “Bác” trong tù, khi ra tù “Bác” công bố “Nhật ký trong tù” vừa sáng tác hoàn thành...”
Như thế “Nhật ký trong tù” ở Hương Cảng năm 29-8-1932 đến 10-9-1933, khác ngày sinh với “Nhật ký trong tù năm “29-8-1942 đến 10-9-1943 ở làng Ngằn Tẩy, cho thấy trí tuệ Hồ Chí Minh tưởng tượng phong phú vượt cả loài vượn. Trong khi ấy vào thời điểm trên “Bác” vẫn sống nhởn nhơ tại tỉnh Cao Bằng. Mỗi ngày, sáng, trưa, chiều, tối, sau lưng trước mặt đều có cần vụ đứng chầu chực, cơm lên ruợu rót, thịt kho, cá chiên, trà, bánh, thuốc lá và café liên tục đầy khay, ăn uống mứa thừa đến độ nhờ chim, thú rừng phi tang, gái gú đầy ra đó trong rừng Việt Bắc, đến đỗi trong dân gian có câu vè diễu “Bác” hạnh phúc quá độ. Cho thấy “Bác” và sử đảng không khớp sự kiện, trắng trợn lừa dối nhân dân Việt Nam, sự sai quấy này “Bác” đã vượt chỉ tiêu hơn 100% không phải một lần. [6]
Từ khi “Bác” xuất hiện tại Việt Nam cho đến ngày qua đời, “Bác” đúng là một vĩ nhân của thế giới tội ác chiến tranh, đã giết chết 1,7 triệu nhân Việt Nam, mà vẫn được sùng bái “Cha già dân tộc” có thế mới phiền cho nhân loại!
Hy vọng nhân dân Việt Nam suy tư một ít về bản thân của Hồ Chí Minh để biết rõ hơn, cho nên cần xét lại và bước vào một báo cáo bí mật, mã số 16, bí danh La Liêu (拉寮), chính là tên của Hồ Chí Minh, tay sai của Trung Cộng, báo cáo mã số 16 gửi về Bắc Kinh, trong nội dung có ghi chú một đoạn mật ngữ: “... 执行党的某些规范, 越南人民默默死去命令, 任何疾病的机制越南人民, 佩服党的量...” (chấp hành đảng đích mỗ ta quy phạm, Việt Nam nhân dân mặc mặc tử khứ mệnh lệnh, nhậm hà tật bệnh đích ki chế Việt Nam nhân dân, bội phục đảng đích lực lượng). Diễn nghĩa: (Nhất định thực hiện chỉ tiêu của đảng, lệnh của Trung Cộng Quốc muốn nhân dân Việt Nam chết từ từ âm thầm, chế tài nhân dân Việt không cho nổi loạn, hướng dẫn nhân dân Việt Nam ngưỡng mộ sức mạnh của Trung Cộng Quốc).
Cánh cửa bí mật đời “Bác” đã mở rộng trong nội dung báo cáo mật mã số 16, La Liêu (拉寮) được Trung Quốc hậu thuẫn, chỉ đạo từ xa đến gần, tất nhiên một người cộng sản hoạt động bí mật đã thấu nhuần qui luật cộng sản, nhất là bí danh La Liêu (拉寮) mã số 16.
Nguyên văn bản công văn mã số 16, và phân tích giải mã.


Lược dịch nguyên văn bản phân tích và giải mã, công văn mã số 16. 
Quân ủy Trung ương Trung Cộng (CPC)
Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).
Công văn mã số 16. Tổng hợp thời sự từ Hà Nội.

Ngày 7 tháng 1 năm 1948.

Tổng kết kháng chiến 1 năm qua.

Kính gửi: Mao Chủ tịch, quý yếu nhân trong Bộ Chính Trị Trung Cộng Quốc và Quân ủy Trung ương Trung Quốc.

Tôi, La Liêu (拉寮-Hồ Chí Minh), Nhất định thực hiện chỉ tiêu của đảng, lệnh của Trung Cộng Quốc muốn nhân dân Việt Nam chết từ từ âm thầm, chế tài nhân dân Việt không cho nổi loạn, hướng dẫn nhân dân Việt Nam ngưỡng mộ sức mạnh của Trung Cộng Quốc.

Và hiện bây giờ, chúng ta tiếp tục kháng chiến đã một năm qua với địch quân Pháp, về tổng kết đối với bộ hạ (Giáp). Địch quân đang thế thủ, chống lại với quân ta, số người tổn thất theo lý thuyết, địch quân chết 30.600 người, bị thương 30.000 người; phía bên ta (Việt Cộng) chết 10.000 người, bị thương 5.600 người.

− Vũ khí của địch quân bị quân ta phá hoại 7 đại pháo 14 ly, 74 đại pháo bị phá hoại, 170 xe chiến đấu bị tiêu hủy, 120 khẩu đại liên nặng nhẹ, 3.400 súng trường, súng ngắn và 8.600 cây súng; Tiêu hủy 61 chiếc máy bay; Tổng cộng tất cá 1029 lần đã xảy ra chiến đấu, tàu chiến lớn nhỏ 110 chiếc của địch bị chúng ta phá hoại, 7 đại pháo đem đi chổ khác, bị tiêu hủy 4 cái đại pháo của mình, 200 cái đại liên, dài ngắn 1396 cái, súng trường và súng ngắn, Chúng ta gặt hái 9 cái đại pháo, bích kích pháo 57 cái bị hư hạo. Xe pháo 61 cái, đại liên 1.134 cái, súng trường ngắn 4.427 cái. Ngoài ra quân ta tịch thâu chiến lợi phẩm đạn dược, quân lương vô số.

Tổng kết kháng chiến 2 năm trước, trong chiến tranh ở Viêt Bắc vào năm (Ất Dậu) từ năm 1945 đến năm 1946 (Tuất).

Địch quân Pháp cố thủ và quân ta tấn công, tổn thất của địch quân 2.100 người chết, 138 người bị thương, vũ khí của địch bị quân ta phá hoại, các loại đại pháo 34 khẩu, bích kích pháo 60 khẩu bị phá hủy, 80 chiến xa pháo bị phá hủy, đại liên 180 khẩu, tiểu liên 1300 khẩu, súng trường và súng ngắn 3.200 khẩu, bắn rơi 11 chiếc máy bay, đụng núi 13 chiếc máy bay, tịch thâu 81 khẩu đại liên, tiêu hao 96 khẩu súng, 21 chiếc tàu chiến bị bắn trung, tiêu hủy 15 chiếc tàu, 15 chiếc tàu chiến bị bắn chìm, phá hoại 5 chiếc tàu chiến.

Về phía quân ta (Việt Minh), 1 đại pháo bị phá hủy, 3 khẩu đại liên hư, 25 khẩu súng trường và ngắn. Quân mình (Trung Cộng) tổn thất tiêu hao ít lắm, đại bộ phận phục kích địa lôi chiến.

Chúng ta được rất nhiều chiến lợi phẩm vũ khí, 3 khẩu đại pháo, 32 khẩu bích kích pháo, 31 khẩu chiến pháo xa, 57 đại liên nặng, 632 khẩu tiểu liên, 1533 khẩu súng trường và ngắn, 50.000 quả lựu đạn, tịch thu 4 đại kho lương thực và quân dụng.

Ký tên

La Liêu 拉寮 thành viên CPC Trung Quốc

(bí danh thứ 222 của Hồ Chí Minh)

Nơi lưu trữ:

− Đảng cộng sản Trung Quốc.
− Quân ủy Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nếu “Bác” là một người Việt Nam chân thực không thể nào tự tay viết báo cáo mã số 16, quá tường tận mọi chi tiết không khác nào để lộ bí mật quốc gia, trừ phi “Bác” làm gián điệp cho Trung Cộng, tư liệu này đã cho thấy nguyên xác nô tài nhà Hán, nó sẽ là trái bom “đỏ” công phá đất nước Việt Nam.
Chúng tôi còn nhớ, vào đầu mùa hạ của năm 1941, có một cuộc triển lãm hình ảnh chủ đề “Con đường hằng sống” tại rừng thiên nhiên tòa thánh Tây Ninh, Đức Phạm Hộ Pháp tuyên báo động rằng:
“− Ngày nay có một Hồ đỏ, nhân dân Việt Nam không trừ khử, ngày mai nó sẽ nhuộm đỏ đất nước mình”.
Chúng tôi đã từng có mặt tại biên giới Việt Bắc vào năm 1987, được nghe người dân tâm tình:
“− Lúc bấy giờ vào năm 1941, người dân ở miền Việt Bắc, ba tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, nghe tên “Hồ” là quá sợ hãi, bởi có quá nhiều tiếng ra vào, xì xào qua dân gian truyền khẩu. “Gái tơ miền núi “Bác” rờ sớm sao”. Thế là người của đảng “Bác” lớn nhỏ, một hai to miệng tuyên truyền “Bác” còn trong vắt.
Tội nghiệp cho nhân dân mình, ôi thương quá, thiếu vắng tin tức, và thiếu suy tư về con người của “Bác”, cho đến thời đại ngày nay (2014) đa số nhân dân vẫn còn mù tịt về “Bác”, không nói chi xa chính những nhà trí thức cũng mịt mù về đảng “Bác”, đất nước của ta đang tơi bời, thế hệ mai sau sẽ khổ đời đời, bởi đảng “Bác” mà ra thế sự này!
(Còn tiếp kỳ 4)

No comments:

Post a Comment