GÓP
GIÓ 23-7-2014
HỆ THỐNG SIÊU-QUYỀN-LỰC
ẨN DANH
Xã luận - Nguyệt
San Đỉnh Sóng Số
#17 (tháng 11/2012)
Nhóm từ
“Tập Đoàn Tài Phiệt” là phỏng dịch của
hai chữ “Financial Oligarchy”. Từ ngữ
“Oligarchy - tập đoàn” có nghĩa đen là
“một số người cai trị hay chỉ
huy” và nghĩa rộng là một hình thức cơ chế
chính quyền trong đó quyền bính thực sự thuộc
về một thiểu số người. Những người
nầy có thể được phân biệt do giai cấp
hoàng tộc, đảng phái – hay đúng hơn, Bộ
Chính Trị - liên hệ gia đình, học vấn, tập
đoàn, độc đảng như Đảng Cộng Sản,
hay quyền hành quân sự. Những quốc gia như thế
thường được kiểm soát bởi một số
gia đình thượng đẳng truyền lại ảnh
hưởng của họ từ thế hệ nầy sang
thế hệ tiếp theo.
Xưyên suốt lịch sử, các tập đoàn đều
độc tài (dựa trên sự phục tùng của dân chúng
mà tồn tại) hay tương đối ít khắc nghiệt
hơn. Arsitote đi tiên phong trong việc xử dụng từ
ngữ trên như là một đồng nghĩa cho sự
cai trị của những người giàu; nhưng từ
oligarchy không luôn luôn là sự cai trị bằng của cải,
vì những tập đoàn có thể đơn thuần là một
nhóm được ưu đãi, và không nhất thiết
liên kết bằng huyết thống như trong một nền
quân chủ.
Lịch
sử cận và hiện đại có khá nhiều hình
thức cai trị tập đoàn, Liên Hiệp Âu Châu,
Liên Xô cũ, Nam Phi, Hoa Kỳ v.v… Nhưng bài viết nầy
không đề cập đến những hình thức chính
trị tập đoàn và chỉ muốn nhấn mạnh
trên tập đoàn tài phiệt (Financial Oligarchy).
Một
số tác giả đương thời đã nhận
định rằng hiện tình chính trị ở Hoa Kỳ
mang tính chất tập đoàn tài phiệt trong bản chất.
*Simon
Johnson viết rằng “sự tái trỗi dậy của
tập đoàn tài phiệt Mỹ thực sự là mới
đây”. Đó là một cơ chế mà ông cho là tân tiến
nhất thế giới.
*Jeffrey A,
Winters cho rằng “tập đoàn và dân chủ hoạt
động bên trong một hệ thống duy nhất, và
chính trị Hoa Kỳ là một biểu hiện hàng ngày của
đối tác đó.”
*Bernie
Danders cho rằng “tầng lớp thượng lưu của
những gia đình cực kỳ giàu sang có xu thế dịa
ngục nhằm tiêu diệt viễn ảnh dân chủ của
một giai cấp trung lưu mạnh đã từng làm thế
giới phải ganh tỵ Hoa Kỳ. Thay vào đó, họ
đã cương quyết tạo ra một tập đoàn
trong đó một số ít gia đình kiểm soát đời
sống kinh tế và chính trị của quốc gia.”
Giới
lãnh đạo chính trị và kỹ nghệ tài chánh Hoa Kỳ
gần đây đã bị chế ngự bởi những
người liên kết với Howard và Yale. Tất cả
năm thành viên của Tối Cao Pháp Viện hiện thời
đều đã theo học tại các trường luật
Harward hay Yale. Sandra Day O’Conner là thành viên cuối cùng
được Tổng thống Ronald Reagan bổ nhiệm
và không theo học đại học nào trong hai đại học
vừa nói. Ronald Reagan cũng là Tổng thống Hoa Kỳ
cuối cùng không theo học đại học nào trong hai
đại học Harward hay Yale.
Sau
Đệ Nhị Thế Chiến các chế độ quân
chủ đúng nghĩa hầu như không còn tồn tại
ngoại trừ một vài quốc gia ở Trung Đông, Phi
Châu… Thay vào đó là các chế độ quân phiệt
(military oligarchy), trong đótướng lãnh hay một tập
đoàn gồm một số tướng lãnh nắm quyền
cai trị quốc gia, có hoặc không có hiến pháp.
Một
hình thức hệ thống chính trị khác nữa là chế
độ Cộng Sản độc đảng trong đó
quyền hành nắm trong tay một Bộ Chính Trị Trung
Ương Đảng, có hoặc không có hiến pháp.
Trái
ngược với những thể chế vừa nói là các
nền dân chủ đại để với hệ thống
chính trị đa đảng, có hiến pháp nhất định,
và cai trị bằng luật pháp hiến định, có sự
phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp,
phần lớn được định đoạt qua
phổ thông đầu phiếu, tất cả dựa trên
tiền đề căn bản là tự do của giới
bị trị: tự do ngôn luận, tự do hội họp,
tự do tín ngưỡng, tự do đi lại
v.v…
Một
cách chính thức, hệ thống chính trị của Hoa Kỳ
mang đầy đủ những thuộc tính và cơ chế
nói trên. Thông thường nguời Mỹ và thế giới
bên ngoài vẫn xem hệ thống chính trị đó như
là một hệ thống lưỡng đảng. Đảng
Cộng Hoà và Đảng Dân Chủ, tranh đấu nhau
để tranh thủ cử tri về quyền chính.
Cũng
như các nền dân chủ Âu Châu, chúng chủ yếu khác
nhau nhờ vào những tiền đề đối nghịch
sâu sắc về nguyên tắc và thế giới quan, như
khác nhau giữa Cánh Tả và Cánh Hữu.
Tuy
nhiên, theo theo sự nhận định của một số
học giả, dó chỉ là phiên bản chính thức; và
đó là một phiên bản mang tính dối gạt, phờ
phỉnh. Hoa Kỳ thực
chất là một hệ thống chính trị độc
đảng với 2 cánh (wings) hay hệ phái (factions) của
cùng một đảng duy nhất tiềm ẩn (hidden). Đảng tiềm ẩn
nầy hỗ trợ cho cả hai hệ phái, cung ứng những
cán bộ và tiền của cho các cuộc vận động
của cả hai cánh và dứt khoát hoàn thành những mục
tiêu của chính nó thông qua thực lực của cả hai
cánh nầy.
“Đảng chính trị đích thực của
Hoa Kỳ là một đám tài phiệt gồm một số
ngân hàng và tập đoàn - đặc biệt là thành phần
thiểu số 1% hay thậm chí ít hơn, gồm khoảng
400 nhân vật nắm quyền kiểm soát số tài sản
lớn hơn cả tài sản của 155 triệu triệu
người Mỹ gộp lại.”
Thành phần
thiểu số nầy nắm trong tay phần lớn những
nguồn tài chánh và những tài nguyên khác và có trong tay cả ảnh
hưởng lẫn quyền kiểm soát đối với
hai cánh vốn chỉ tranh biện nhau qua những vấn
đề nhỏ nhặt, hình thức và cá nhân. Chúng không bao
giờ cho thấy sự khác biệt hay tra hỏi về những
vấn đề thực sự quan trọng như quyền
hạn (right) của tập đoàn tài phiệt (thường
được mệnh danh là financial olygarchy hay corporatocracy)
trong việc cai trị và khai thác những quyền lợi
quốc gia, đừng nói đến chuyện đề
xướng một giải pháp thay thế cho nó.
Đó
là một loại siêu quyền lực khiến người
ta liên tưởng đến một chế độ toàn
trị giả định mà Alexix de Tocqueville đã mô tả
ở thế kỷ 19 trong tác phẩm “De l’esprit des
lois”, “Một uy quyền như thế không tiêu diệt
hiện hữu, nhưng ngăn cản hiện hữu; nó
không độc tài, nhưng nó giam hảm, làm suy nhược,
dập tắt, và vô hiệu hoá một dân tộc, cho đến
khi mọi quốc gia bị giản lược thành không gì
hơn là một đàn thú nhút nhát và cần cù do chính phủ
đứng chăn. Sự hiện hữu thê thảm nầy
được người dân chấp nhận, vì nó đi
qua những tiến trình bầu bán những người bảo
vệ của họ, tự đánh lừa mình rằng
họ và những đồng bào của họ vẫn còn tự
do vì họ tham gia vào tiến trình tự cai trị. Tuy nhiên,
khi nhà nước vú em bành trướng, lá phiếu trở
nên kém phần hiệu lực và cá nhân càng lúc càng mất quyền
bầu cử.”
Carrrol
Quiley, một sử gia lỗi lạc thẩng thắn nhận
định, “Quả là một ý tưởng điên rồ
nếu cho rằng hai đảng đại diện cho những
tư tưởng và chính sách đối nghịch - một
của Cánh Hữu và một của Cánh Tả. Ý tưởng
đó chỉ có thể được chấp nhận
đối với những tư tưởng gia hàn lâm và
giáo điều mà thôi. Thay vì thế, hai đảng hầu
như là một, cho nên người Mỹ có thể dùng lá
phiếu để “vứt bỏ bọn bất
lương” trong một kỳ bầu cử nhưng vẫn
không đưa đến những chuyển quyền sâu sắc
hay triệt để về chính sách.”
Tocqueville nói rõ thêm, “Những người
đương thời của chúng ta thường bị
kích động bởi hai tham vọng mâu thuẫn nhau: họ
vừa muốn bị dẫn dắt lại vừa muốn
tự do. Vì không thể tiêu diệt một trong hai xu hướng
trái ngược đó nên họ cố thoả mã cả hai
cùng một lúc. Họ thiết kế một hình thức
chính phủ độc nhất, mô phạm, và toàn quyền,
nhưng lại được dân bầu. Họ phối hợp
nguyên tắc trung ương tập quyền và nguyên tắc
nhân dân làm chủ; điều nầy đem lại cho họ
một thời gian trì hoản; họ an ủi đang
được dạy bảo theo suy nghĩ là họ đã
lựa chọn những người bảo vệ cho họ.
Mỗi người tự đặt mình vào sợi dây xích
cổ, vì thấy rằng đó không phải là một
người hay một giai cấp mà là toàn thể dân chúng
đang nắm đầu dây xích. Trong hệ thống nầy,
người dân chỉ vùng vẩy thoát ra tình trạng lệ
thuộc của họ một thời gian đủ dài
để lựa chọn người chủ của họ
và sau đó lại trở về tình trạng cũ một
lần nữa. Ngày nay, rất nhiều người hoàn toàn
bằng lòng với loại thoả hiệp giữa chế
độ độc tài và nhân dân làm chủ; và họ
nghĩ rằng tự do cá nhân của họ đã
được bảo vệ đầy đủ khi họ
phó thác nó cho quyền hành quốc gia nói chung. Cuối cùng, những
gì còn lại chỉ là một nền dân chủ trống rỗng
bị chế độ chuyên chế đục khoét mà ít ai
phản kháng.”
Tập
đoàn tài phiệt Mỹ được liên kết chặt
chẽ với Chính Phủ mà nó chỉ định và kiểm
soát - thực thi quyền năng và tiếng nói mà họ muốn
cùng với những tư tưởng thông qua những
đại bài như :
1.- The
Council on Foreign Relation (4500 thành viên),
2.- The
Trilateral Commission (87 Americans + 337 từ các quốc gia khác),
3.- The
Bilderberg Club (120-140 “khách”) và
4.- Nhiều
cơ quan được miễn thuế khác như The
Rockefeller Foundation, trong đó những đại biểu quản
gia then chốt cùng với những quyền lợi của
tập đoàn tiêu biểu cho những kế hoạch
trước mắt và toàn cầu, và nghị trình được
bàn thảo, cải thiện và sau đó được thi
hành bởi những đám lưu manh chính trị nô bộc.
Giới
hạn của bài nầy không cho phép được đi
sâu đề cập vào ba tổ chức vừa đề
cập ở trên; nhưng chúng ta chỉ cần ghi nhận
rằng sự nghiệp của nhiều người đã
vươn lên như phép lạ sau khi tham dự buổi hội
nghị Bilderberg đầu tiên của họ: Margaret
Thatcher, Bill Clinton, and Tony Blair. Obama đã bổ nhiệm 11
thành viên của Ủy Ban Trilateral Commission (nghĩa là hơn
10%) vào những chức vụ hàng đầu và then chốt
trong chính quyền của ông trong mười ngày đầu
của nhiệm kỳ của ông.
Năm
1976, người sáng lập của Trilateral Commission và David
Rockefeller, kẻ dựng ngôi vua của Mỹ, đã
đưa một gã vô danh mang tên Jimmy Carter vào Toà Bạch Ốc.
Giữa
1945 và 1972, khoảng 45% những viên chức ngoại giao
hàng đầu phục vụ trong chính phủ Mỹ
cũng là những thành viên của Hội Đồng Tài Phiệt
The Council on Foreign Relation, khiến một trong những thành
viên hàng đầu có lúc nói rằng việc gia nhập vào Hội
Đồng chủ yếu là một “nghi thức
thăng tiến” thành một viên chức của chính
sách ngoại giao…
Khoảng
42% những chức vụ ngoại giao hàng đầu trong
chính quyền Truman do các thành viên của Hội Đồng
Tài Phiệt nắm giữ; con số đó là 40% trong chính
quyền của Eisenhower, 51% trong chánh quyền của
Kennedy, và 57% trong chính quyền của Johnson. Hội Đồng
Tài Phiệt đã và tiếp tục có những ảnh
hưởng lớn lao trong thế giới truyền thông,
nhờ đó nó có thể quảng bá ý thức hệ của
nó, thăng tiến những nghị trình của nó, và che
đậy ảnh hưởng của nó… Cơ Quan
Thình Báo Trung Ương CIA cũng không phải là kẻ xa lạ
trong hệ thống nầy, vì thường xuyên trong những
thập niên đầu khi mới hình thành, những giám
đốc của nó đều đến từ Hội
Đồng, như Allen Dulles, John A. McCone, Richard Helms, William
Colby, và George H. W. Bush.”
Quý vị có
thể vào địa chỉ : htt://www.apfn.org/apfn/cfr-members.htm để có được
một danh sách đầy đủ hơn về những
nhân vật hàng đầu thuộc Hội Đồng liên
quan đến bang giao quốc tế và thuộc Trilateral
Commission trong thế giới chính trị, kinh doanh, kỹ nghệ,
hàn lâm, truyền thông, quân sự và CIA…
Do
đó, không mấy ngạc nhiên khi Hillary Clinton, trong một
giây phút yếu lòng, đã công khai thú nhận : “Chúng tôi
nhận nhiều khuyến cáo của Hội Đồng,
nên điều nầy sẽ có nghĩa là lúc nào tôi cũng
sẽ được bảo đảm nên
làm gì và nghĩ gì về tương lai.” (“We
get a lot of advice from the Council, so this will mean I w’ont have as
far to go to be told what we should be doing and how we should think about the
furure.”)
Theo Jim
Brown, “tập đoàn tài phiệt là một hệ thống
chủ yếu Anh Mỹ, theo một mức độ nào
đó, hoạt động theo phương cách mà Cánh Hữu
Cực Đoan tin là tương tự như hoạt động
của những người Cộng sản. Thực vậy,
hệ thống nầy thường được nhận
diện như là Nhóm Bàn Tròn (Round Table Groups), không ngần ngại
hợp tác với Cộng sản hay bất kỳ nhóm nào
khác, và họ thường xuyên làm thế. Tôi biết
được những hoạt động của hệ
thống nầy vì tôi đã nghiên cứu nó 20 năm nay và vào
đầu thập niên 1960, trong hai năm, tôi được
phép xem xét những tài liệu và hồ sơ bí mật của
nó. Tôi không có ác cảm gì đối với nó hay đối
với đa số những mục tiêu của nó, và trong phần
lớn của đời tôi, tôi đã tiếp cận với
nó và nhiều công cụ của nó. Cả trong quá khứ lẫn
mới đây, tôi đã phản đối một số
chính sách của nó (đặc biệt là quan niệm cho rằng
Anh Quốc là một Đại Tây Dương đúng
hơn là một Cường Quốc Âu Châu, phải
được liên minh với Hoa Kỳ và phải đứng
cô lập với Âu Châu), nhưng nói chung, theo quan điểm
và cá nhân của tôi, hệ thống đó muốn không ai biết
đến, và tôi tin rằng vai trò của nó trong lịch sử
là khá đáng kể để mọi người biết
đến.”
Có thể
có hay không có câu trả lời đích thực cho những
câu hỏi sau đây ? *Chung qui,
đâu là cơ quan thực sự hoạch định chính
sách và thực thi quyết định trong hệ thống
chính trị Hoa Kỳ? Toà Bạch Ốc, Điện Capitol,
Ngũ Giác Đài…?
*Qua phổ
thông đầu phiếu, người Mỹ có nghĩ rằng
mình đúng khi cho rằng tổng thống và các nhà đại
biểu dân cử đích thực là do lá phiếu của
người dân hay không? Theo Tocqueville, không bao giờ có thể
tin rằng một chính phủ tự do, khôn ngoan, và nghị
lực lại có thể sản xuất từ những lá
phiếu của một dân tộc nô lệ.
*Cơ
chế chính trị mà người Mỹ đang kinh qua có
đích thực tự do và dân chủ hay không, hay, theo nhận
định của Mark Lewin, cá nhân hiện hữu để
phục vụ nhà nước, và nhà nước thì hiện
hữu để phục vụ mục tiêu của những
tay đầu sỏ ?
*Có thể
tin được rằng, trên cơ bản, thế giới
chính trị mà người Mỹ đang sống thực sự
khác với cơ chế chính trị Cộng sản hay
không, hay chung qui chỉ là một chế độ độc
tài mềm? Theo Tocqueville, chế độ gây nguy hiểm nhất
cho xã hội là một chế độ độc tài mềm.
Đó là lối áp đặt từng bước sự
chấp nhận chủ nghĩa bình đẳng cực
đoan, được ngụy trang như một chủ
nghĩa không tưởng dân chủ và hành chánh. Đó là niềm
tin vào khả năng vô tận của những viên chức
được bầu ra có thể bảo vệ được
đời sống và bảo đảm sự điều
tiêt thích hợp trong một bộ máy chính quyền nhà nước
bao la.
*Hệ
thống chính trị Hoa Kỳ có thực sự là một hệ
thống đa đảng hay không ?
*Vai trò
bá chủ thế giới có thực sự chuyển từ
Đế Quốc Anh sang Hoa Kỳ kể từ thập
niên 1950 hay vẫn còn nằm trong tay Đế Quốc Anh
thông qua Tập Đoàn Tài Phiệt? Vận mệnh của
Hoa Kỳ có thực sự nằm trong tay nguời dân Hoa Kỳ
hay không?
*Phải
chăng thế giới hiện nay thực sự không còn
đường ranh rõ rệt giữa tự do dân chủ và
độc tài toàn trị, và nhân loại sẽ từng
bước bị áp đặt một thể chế toàn
trị từ hai phía?
*Hành
tinh chúng ta cuối cùng sẽ trở thành một Chợ Trời
Lớn trong đó con người sống ăn đong trả
nợ, tài sản nay còn mai mất, phục vụ quyền
lợi của đám đầu sỏ trên cao, cả tư
bản xanh và tư bản đỏ vô hình vô dạng;
*Phải
chăng núi nợ khổng lồ hiện nay của Hoa Kỳ
vừa là biểu hiện vừa là hậu quả của
chính sách nô lệ hoá từ trên cao?
Bạn
đọc có thể nêu tiếp nhiều câu hỏi khác nữa
ở đây.
“Ác
quỷ lộng hành khi những người lương thiện
không làm gì cả.” (Evil flourishes when good men do nothing)
Edmund Burke
No comments:
Post a Comment