Sự tích chiếc xe trâu của Phùng Quán
Nguyễn Quang Lập
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)
Nhà thơ Phùng Quán (1932-1995)
Những
năm tám mươi mình ở quê, mỗi lần ra Hà Nội mình thường trọ hai nơi, một
là nhà Phạm Xuân Nguyên, hai là nhà Phùng Quán. Chỉ hai nơi đó là mình
cảm thấy hoàn toàn tự do như ở nhà mình. Nhà thằng Nguyên bằng cái lỗ
mũi, chưa đầy chục mét vuông. Vợ chồng nó còn trẻ, có mình chúng nó như
bị cấm đoán chuyện vợ chồng, rất khổ nhưng chúng nó vẫn vui vẻ. Mình
cũng ái ngại lắm. Thường trước khi ngủ mình nốc rượu thật say, một là để
ngủ cho ngon, khỏi phải tưởng tượng lung tung, hai là ngầm thông báo
cho chúng nó là mình say rồi, “chết” rồi, muốn làm gì thì làm, hi hi.
Lúc
đầu cứ ra Hà Nội là mình tấp vào nhà thằng Nguyên. Một hôm, anh Quán
đến chơi nhà thằng Nguyên gặp mình ở đấy. Tàn cuộc anh kéo mình ra ngõ,
nói mày vô nhà lấy đồ anh chở lên nhà anh. Mình ngạc nhiên, nói răng rứa
anh. Anh cười, vỗ nhẹ vai mình, nói mày có vợ rồi mà tồ lắm. Mày nằm
chềnh ềnh ra đó, tụi nó biết mần ăn ra răng. Mình ok liền, vui vẻ theo
anh về nhà. Bây giờ mình mới để ý chiếc xe đạp của anh Quán, nó to quá
cỡ, trông thô kệch kinh hồn, chưa bao giờ mình thấy chiếc xe đạp nào to
kềnh càng và thô kệch như xe này, ống tuýp khung xe to hơn cổ tay, nan
vành xe chiếc nào chiếc nấy to bằng đầu đũa, không thèm nói ngoa.
Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai tặng, anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lênin chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh chiếc xe đạp này. Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.
Anh Quán nói đó là xe trâu, người Nga dùng nó làm xe thồ, chở vài tạ vẫn chạy tốt. Mình hỏi sao anh mua xe này. Anh cười cái hậc, nói tiền đâu mà mua, có tiền cũng chẳng có mà mua, xe này khắp Hà Nội bói không ra một chiếc. Mình nói ủa, rứa răng anh có. Anh nói người ta tặng. Mình hỏi ai tặng, anh nói Lênin. Mình cười phì, nói anh không biết nói trạng. Lênin chết năm nào, anh sinh năm nào mà bảo Lênin tặng anh chiếc xe đạp này. Anh cười hì hì, nói rứa mới tài.
Mình
không hỏi nữa vì biết thế nào anh cũng kể, tính anh thích kể có đầu có
đuôi, ít khi kể gọn lỏn một câu. Anh hay kể mấy chuyện liên quan đến sự
viết của anh. Anh kể cái truyện Vượt Côn Đảo tất nhiên anh bịa,
hồi đó nghe người ta kể lại một phần anh bịa ra chín phần. Cho đến ngày
anh ngồi kể cho mình nghe, khoảng năm 85 – 86 chi đó, anh vẫn chưa biết
Côn Đảo méo hay tròn. Trong đó có mấy câu anh tả con đường từ nhà tù ra
bãi dương (trường bắn) được lót xương của các tù nhân bị án tử hình. Là
anh bịa ra thế để nâng cao lòng căm thù Đế quốc thực dân chứ xương người
làm sao lót được đường. Chẳng ngờ trong hồi ký của một ông ở tù Côn Đảo
về (ông này nổi tiếng lắm, không dám nêu tên, hi hi) khi viết về con
đường này cũng tả y chang như anh tả, cũng con đường lót xương các tù
nhân, he he.
Cũng chuyện tù Côn Đảo, trong Trường ca Võ Thị Sáu (thực ra là bài thơ dài, in nguyên một trang báo Tiền Phong)
anh viết tuổi 16 chị Sáu vẫn hái hoa lê-ki-ma cài tóc. Buổi sáng ngày
bị hành hình, chị đã ngắt một nhành hoa lê-ki-ma cài lên mái tóc, trên
đường ra pháp trường chị vừa đi vừa hát. Anh đâu biết lê-ki-ma là cây
gì, nghe cái tên đẹp thì tưởng hoa của nó chắc đẹp lắm. Sau này mới biết
lê-ki-ma thực ra là cây quả trứng gà, hoa đã xấu lại đầy nhựa, “ngắt
một nhành hoa cài mái tóc” có mà dở hơi. Ai dè bác Nguyễn Đức Toàn lấy
cảm hứng từ bài thơ của anh để viết bài Biết ơn Võ Thị Sáu (chắc khi đó bác Toàn cũng không biết cây lê-ki-ma là cây gì): Mùa
hoa lê-ki-ma nở ở quê ta miền đất đỏ/ Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh
hùng/ Đã chết cho mùa hoa lê-ki-ma nở…Chị Sáu đã hy sinh rồi/ Giọng hát
vẫn như còn vang dội vào trái tim…Anh Quán cười khà khà, nói sau này hễ viết về chị Võ Thị Sáu thì người ta lại bê nguyên chi tiết này vào, vui quá là vui.
Đến
ngày thứ ba anh Quán mới kể sự tích chiếc xe trâu. Bữa đó trời mưa, anh
đi đầu về, chạy rật rật vào nhà, miệng nói tay chỉ, nói Lập Lập mày bê
chiếc xe đạp vào nhà cho anh. Mình chạy ra, vừa nhấc lên đã lè lưỡi,
nặng quá là nặng. Mình vừa thở vừa nói xe này đúc bằng sắt hay sao, nặng
như chiếc xe máy. Anh Quán cười nhẹ, nói thì bằng sắt chứ sao, có tí
nhôm nào đâu, có rứa mới gọi là xe trâu. Anh lôi chai rượu vừa kiếm đâu
về rót ra hai ly, nói uống đi. Xe này anh kiếm được thời viết văn chui
đấy, chuyện hay lắm.
Anh
kể đâu như năm 69 – 70, bé Đỗ Quyên, con gái đầu của anh, đang học cấp
I. Mùa hè thì không sao, cứ đến mùa đông là nó thường xuyên đi học muộn.
Trời rét mướt cả nhà ngủ khì trong chăn ấm, đến khi tung chăn vùng dậy
đã bảy, tám giờ rồi. Con gái bị cô giáo phê bình liên tục, anh xót lắm,
nghĩ bụng không biết làm thế nào kiếm được cái đồng hồ báo thức. Đồng hồ
báo thức Liên Xô hồi đó bán phân phối giá 20 đồng, đối với anh Quán là
cả một món tiền to. Nhưng giá có kiếm được 20 đồng cũng chả đến lượt
anh, sổ gạo còn hồi hộp sợ có ngày bị cắt mất, anh đâu dám mơ được phân
phối đồng hồ.
Đến chơi nhà Trần Dần, anh thấy có tờ họa báo Phụ nữ Liên Xô,
vừa lật vài trang chợt thấy thông báo thể lệ cuộc thi viết về Lênin.
Ngó xuống phần giải thưởng, giải khuyến khích là đồng hồ báo thức, bút
máy và một vài thứ khác. Lập tức anh về nhà viết ngay, quyết giành cho
được cái giải khuyến khích. Chừng hai ngày anh viết xong cái truyện Như con cò vàng trong cổ tích.
Tất nhiên anh không lấy tên thật. Anh thư vào Nghệ An cho chú em họ
đang làm công nhân lâm trường gì đấy, xin phép được lấy tên anh ấy. Sở
dĩ anh lấy tên chú em họ, vì chuyện thi cử anh không dám mượn tên mấy
ông bạn nhà văn anh vẫn mượn tên, hơn nữa lấy tên một người thuộc giai
cấp công nhân chắc người ta sẽ ưu tiên hơn.
Mới
gửi thì thấp thỏm lắm, thỉnh thoảng có bưu tá gọi ra ngõ lấy thư, trống
ngực đập to hơn trống làng, cứ tưởng bở thư chú em họ báo tin giải
thưởng. Hơn nửa năm vẫn biệt vô âm tín, tuyệt vọng luôn. Trách mình to
đầu mà dại, tự nhiên đơm đó ngọn tre, đấu với các anh tài của cả 12 nước
Xã hội Chủ nghĩa, cái giải rút cũng đừng có mà mơ.
Một
hôm rượu say anh ngủ như chết, chị Trâm, vợ anh, véo cho cái rõ đau.
Anh giật mình mở mắt, chị Trâm cầm tờ giấy báo trúng giải chú em họ vừa
cầm ra đưa qua đưa lại trước mắt anh, ối cha mẹ ơi giải nhất! Anh tự véo
đùi mình hai ba cái để xem mình tỉnh hay mơ. Chú em họ mặt nhăn như bị,
nói anh mần ri chết em rồi. Anh
hỏi sao. Chú em họ kể giấy thông báo về buổi sáng, buổi chiều đã ồn
khắp lâm trường, một ngày sau thì ồn ra cả tỉnh. Một ông công nhân ở nơi
khỉ ho cò gáy bỗng nhận cái giải nhất của Liên Xô, lại giải nhất viết
về Lênin thế mới kinh. Đài lâm trường, đài huyện, đài tỉnh đua nhau nói
râm ran. Các nhà báo kéo nhau về lâm trường ầm ầm, chú em họ hãi quá,
nửa đêm nhảy tàu ra nhà anh.
Chuyện
nghiêm trọng. Việc này nếu lộ ra chẳng những anh mất toi cái giải nhất
mà việc viết văn chui của anh hơn chục năm qua nhất định bị lật tẩy,
khéo không tù tội như chơi. Anh lạy lục chú em họ đã thương thì thương
cho trót, cố làm sao đừng để chuyện này lộ ra. Anh diễn giải phân tích
cái truyện, đặt ra đủ loại câu hỏi rồi trả lời, để chú em họ đối phó với
đám nhà báo. Chú em họ cay đắng ra về, thôi thì đâm lao phải theo lao,
nếu lộ ra anh Quán chết thì anh cũng chết theo, chẳng phải chuyện chơi.
Được
hơn một tuần, nửa đêm chú em họ lại mò ra, lôi trong bị ra cái đồng hồ
báo thức và năm chục đồng đưa cho anh Quán, nói của anh đó, anh cầm đi
rồi tha cho em, hai ba tuần nay vợ chồng em mất ăn mất ngủ, kiểu này rồi
cũng “tăng xông” đứng tim mà chết, chẳng sống được đâu. Hỏi thì chú em
họ kể, hết lâm trường mít tinh biểu dương đến huyện, sở hội họp khen
ngợi. Lại còn Tỉnh ủy gọi lên chiêu đãi, tặng 50 đồng; Ủy ban tỉnh gọi
lên chiêu đãi, tặng đồng hồ báo thức. Hai vợ chồng chú em họ sợ hết hồn,
cứ mỗi lần có trát gọi là tim họ nhảy lên sau gáy, mặt mày xanh như đít
nhái.
Rồi
cũng qua. Ngày anh Quán đưa chú em họ đến Đại sứ quán Liên Xô nhận
chiếc xe đạp là ngày cuối cùng trong suốt ba tháng trời căng thẳng hồi
hộp. Anh nấp sau gốc cây bên kia đường, đối diện cổng Đại sứ quán, căng
thẳng đến độ mồ hôi đầm đìa toàn thân, ướt sũng cả áo quần, chỉ sợ đến
phút chót mọi việc bị lật tẩy. Chờ suốt ba tiếng đồng hồ mới thấy chú em
họ đẩy chiếc xe đạp đi ra. Anh ôm chầm lấy chú em họ nghẹn ngào không
nói được. Hồi lâu mới nấc lên, nói em ơi, ơn em đời đời kiếp kiếp. Anh
theo Vệ quốc quân vào sống ra chết không biết bao nhiêu lần, chưa lần
nào anh sợ như lần này.
Nghe đến đây tự nhiên mình muốn khóc.
Nguyễn Quang Lập
No comments:
Post a Comment