Friday, August 1, 2014
LỜI THÚ TỘI KINH HOÀNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Từ trái qua phải. Lý Bằng, Giang Trạch Dân (nắm tay Nguyễn Văn Linh), Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng (chắp tay)
Trúc Giang MN
1* Mở bài
Ngày thứ bảy, 31 tháng 5, 2014 đài BBC đưa tin như sau:
“Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam nói quan hệ Việt-Trung vẫn “phát triển tốt đẹp” và so sánh xung đột hiện nay trên Biển Đông với ‘mâu thuẫn gia đình’.
Ông Thanh nói:”Trên thực tế, ngay ở trong quốc gia hay mỗi gia đình cũng
còn có những mâu thuẫn, bất đồng, huống chi là các nước láng giềng với
nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều
khó tránh khỏi.” (Phùng Quang Thanh)
Ông Thanh ví cuộc tranh chấp như mâu thuẩn trong một gia đình rất đúng.
Về mâu thuẩn gia đình thì Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và phái đoàn của
đảng CSVN đã xin cho Việt Nam được làm một khu tự trị trực thuộc chính
quyền Trung ương Bắc Kinh, và đã được “Phía Trung Quốc đồng ý và chấp
nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để
đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc “gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)
Mâu thuẩn trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là hiện thực, Tây Tạng và Tân Cương là một chứng minh cụ thể.
GS Carl Thayer cho biết: “Giới chức Việt Nam thường có thói quen nói
chung chung và không đi vào cụ thể”, do đó ta có thể nhận ra ‘mâu thuẫn gia đình’ nằm trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
“Một thời kỳ Bắc thuộc rất nguy hiểm đã bắt đầu”. Đó là lời xác nhận của
một cán bộ Việt Cộng cao cấp thuộc Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam,
Nguyễn Cơ Thạch, Bộ trưởng Ngoại giao, đã tuyên bố sau Hội nghị Thành
Đô, Tứ Xuyên năm 1990.
Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố như thế thì có thể tin tưởng được Hội nghị
Thành Đô đã đưa Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc. Đó là đại sự của quốc
gia cho nên ông không có thể nói chơi cho vui miệng, vì lời nói có ảnh
hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp chính trị của ông. Bị mất chức.
Bài nầy nêu những bằng chứng cụ thể để chứng minh hoạt động của hai bên
Việt-Trung trong chương trình 30 năm về mọi mặt gọi là “đại cuộc”, và
ngụy trang bằng cụm từ “16 chữ vàng”
Do kinh nghiệm ở hai khu tự trị Tây Tạng và Tân Cương, chính quyền trung
ương ở Bắc Kinh đã kiềm chế CSVN bằng cách đã cấy sinh tử phù và đặt
chiếc vòng kim cô lên đầu CSVN cho nên những tên Hán ngụy hiện nay như
cá nằm trên thớt, vô phương cục cựa.
Giang Trạch Dân đã cho CSVN thời gian 30 năm để tiến hành sự kiện vĩ đại
đối với Việt Nam cho nên gọi đó là “đại cuộc” và việc thực hiện chương
trình 30 năm nằm trong khuôn khổ “16 chữ vàng”. Vì thế cứ mỗi lần có
tranh chấp thì Bắc Kinh khuyên nhũ Việt Cộng hãy vì “đại cuộc”, và CSVN
luôn luôn cam kết thực hiện 16 chữ vàng.
Tuyên bố của Phùng Quang Thanh thật đúng là lời thú tội kinh hoàng đối với người Việt trong nước.
Cho dù Wikileaks không tiết lộ, xem như không có biên bản đó, thì xuyên
qua những hành động mà đảng CSVN đã thể hiện và nhiều người đã xác nhận
đó là hành động bán nước.
2* Đảng Cộng Sản Việt Nam xin được làm một khu tự trị trực thuộc
Bắc Kinh
Bắc Kinh
Wikileaks xác định văn kiện đó là một trong 3,100 bức điện thư lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, tài liệu chi tiết như sau:
“Biên bản buổi họp kín giữa Nguyễn Văn Linh , Tổng Bí Thư đảng CSVN, Đỗ
Mười, Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng, đại diện phía Việt Nam, và Giang
Trạch Dân, TBT/CSTQ, Lý Bằng, Thủ tướng, đã họp 2 ngày từ 3 và 4-9-1990,
tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ”.
“Vì sự tồn tại của sự nghiệp xây
dựng Chủ Nghĩa Cộng Sản, đảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam đề nghị phía
Trung Quốc giải quyết các mối bất đồng giữa hai nước. Phía Việt Nam sẽ
cố hết sức mình để vun đắp tình hữu nghị lâu đời vốn có giữa hai đảng và
nhân dân hai nước do Chủ tịch Mao Trạch Đông và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dày công xây đắp trong quá khứ. Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn
sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại
Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng,
Quảng Tây”.
“Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN “giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Hết trích)
3* Bí mật của chương trình 30 năm sát nhập Việt Nam vào Trung Cộng
Hội nghị tái lập bang giao giữa hai nước được tổ chức công khai vào hai
ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, nhưng nội dung CSVN
xin được sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc là bí mật.
Cho mãi đến khi Wikileaks phổ biến tài liệu mật đó thì người Việt ở nước
ngoài mới biết đến, nhưng đối với đa số người trong nước thì nó vẫn còn
là một bí mật. Vì thế, để lừa bịp nhân dân Việt Nam, chương trình 30
năm mà hai đảng Cộng Sản nầy thực hiện được ngụy trang dưới những từ ngữ
mỹ miều như “đại cuộc”, “phương châm 16 chữ vàng”, “hợp tác chiến lược
toàn diện”, “Ủy ban Chỉ đạo Hợp tác toàn diện”…
Những cụm từ nêu trên là cái nhãn hiệu che giấu chương trình 30 năm ở Thành Đô.
Wikileaks không phải là căn bản để đánh giá, nó không phải là bằng
chứng, cho nên có nó hay không có nó không quan trọng, mà hành động cụ
thể là CSVN thi hành đối với Trung Cộng mới chính là bằng chứng bán
nước. Hành động bán nước của đảng CSVN được xác định qua những hành động
cụ thể một cách chính thức bằng những văn bản của những tuyên bố chung
và hành động mà Đảng CSVN đã làm.
4* Sự ra đời của “16 chữ vàng”
- 1. Bước mở đầu
Tháng 11 năm 1991, sau hội nghị Thành Đô, lãnh đạo cao cấp hai đảng, hai
nước liên tiếp thăm viếng lẫn nhau. Sự giao lưu, hợp tác giữa hai bên
về các lãnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật, văn hoá…
được mở rộng, nâng lên tầm cao là bước đầu của việc hội nhập.
Trung Cộng cho biết con đường hợp nhất của hai nước vô cùng thuận lợi vì
đó là những đặc thù về địa lý tự nhiên, chế độ chính trị, văn hoá, xã
hội và vận mệnh của hai dân tộc, của hai đảng được xem như một.
“Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan”
Việt Trung tuy hai mà một, tương nhập là lẻ tất yếu và hợp tình, hợp lý.
4.2. Trung Cộng khởi tạo phương châm 16 chữ vàng
Tiếp tục thúc đẩy tiến trình bí mật 30 năm Thành Đô, Giang Trạch Dân đưa
ra chiêu bài để ngụy trang là phương châm 16 chữ vàng. Tổng Bí Thư Lê
Khả Phiêu nhất trí ngay và cam kết luôn luôn thực hiện với quyết tâm cao
độ để hoàn thành “đại cuộc” đó.
Thế là phương châm 16 chữ vàng ra đời từ đó. Bản tuyên bố chung về 16
chữ vàng chính thức được Giang Trạch Dân và Lê Khả Phiêu ký vào tháng 2
năm 1999.
16 chữ vàng:
Láng giềng hữu nghị (mục lân hữu hảo), hợp tác toàn diện (Toàn diện hợp
tác), ổn định lâu dài (Trường kỳ ổn định), hướng tới tương lai (Diện
hướng vị lai).
Tháng 11 năm 2000 khi tân Tổng bí thư Nông Đức Mạnh sang diện kiến thì
Giang Trạch Dân nhắc đến và nhấn mạnh, phương châm 16 chữ vàng là cái
khung chỉ đạo căn bản và nhất quán để Việt Nam phát triển quan hệ với
Bắc Kinh. Cũng giống như những người tiền nhiệm, Nông Đức Mạnh hạ quyết
tâm thực hiện nội dung của 16 chữ vàng.
5* Thực hiện chương trình 30 năm trên cơ sở 16 chữ vàng
- 1. Nội dung chương trình
Chương trình 30 năm Thành Đô được các đời Tổng bí thư CSVN ký kết qua
những bản tuyên bố chung về hợp tác toàn diện để Việt Nam hội đủ điều
kiện sát nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
Hợp tác toàn diện về các mặt:
- Việc quản lý đảng, quản lý nhà nước thông qua những cuộc thăm viếng của các lãnh đạo cao cấp hai bên.
- Giao lưu về các mặt: chính trị, kinh tế thương mại, quân sự, văn hóa, hữu nghị nhân dân…từng bước nâng lên tầm cao mới sẵn sàng cho ý nguyện hội nhập theo tinh thần của hội nghị Thành Đô năm 1990.
- 2. Những bước cụ thể đã được thực hiện
- 2.1. Hợp tác toàn diện về việc quản lý đảng và quản lý nhà nước
Các lãnh đạo cao cấp của đảng và nhà nước hai bên liên tục có những cuộc
viếng thăm quan trọng, không ngừng vun đắp quan hệ hợp tác toàn diện,
từng bước nâng lên tầm cao mới để đáp ứng “nguyện vọng của nhân dân hai
nước” là hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc.
1). Những lãnh đạo Trung Cộng sang thăm Việt Nam
Từ tháng 11 năm 1992 đến năm 2013 đã có 8 lãnh đạo cao cấp Trung Cộng đến thăm và làm việc với lãnh đạo đảng CSVN.
Thủ tướng Lý Bằng (tháng 11 năm 1992). Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch Đàng
(tháng 11, 1994 và tháng 3, 2002). Chủ tịch nước Giang Trạch Dân (tháng
6, 1996). Thủ tướng Chu Dung Cơ (tháng 11, 1996). Thủ tướng Ôn Gia Bảo
(tháng 12, 1996).
Từ 31-10 đến 2-11-2005 Hồ Cẩm Đào kinh lý Việt Nam. Đó là chuyến viếng
thăm cao cấp nhất, đầy đủ cương vị: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quân ủy TW, là bước ngoặt quan trọng thúc đẩy Việt Nam hội nhập vào
Trung Quốc.
Sau đó là viếng thăm của Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Quốc Cường. Ngoài ra còn có nhiều lãnh đạo cấp thấp tới lui rộn rịp.
2). Về phía lãnh đạo Việt Nam sang chầu thiên triều
Tất cả những Tổng bí thư, chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội và thủ tướng
đều phải qua diện kiến lãnh đạo Trung Cộng. Tổng bí thư, chủ tịch nước
đều phải ký những bản Tuyên bố chung xác định quyết tâm thúc đẩy, hợp
tác toàn diện trên phương châm 16 chữ vàng và 4 tốt mà thực chất là hoàn
tất chương trình 30 Thành Đô, sát nhập vào “đại gia đình các dân tộc
Trung Quốc”.
Ngoài những bản tuyên bố chung, Việt Nam bị bắt buộc phải thành lập “Ủy Ban Chỉ Đạo Hợp Tác Toàn Diện” để làm việc một cách cụ thể với Ủy ban Hợp tác Toàn diện của Trung Cộng.
Phiên họp lần thứ tư, phiên họp lần thứ 5 Ủy ban Chỉ đạo Hợp Tác Toàn Diện
Vì sao phải thành lập ủy ban chỉ đạo hợp tác toàn diện? Một quốc gia độc
lập chỉ cần xác định chính sách ngoại giao là đủ. Khi cần thì ký những
hiệp ước, những thỏa thuận riêng biệt cho mỗi vấn đề.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh (phải) và thượng tướng Mã Hiểu Thiên
Việt Trung hợp tác toàn diện về quốc phòng
- 2.2. Hợp tác toàn diện về kinh tế với Bắc Kinh
1). Thiết lập những nguyên tắc luật pháp căn bản về kinh tế
Năm 2005, trong số 44 hiệp định và thỏa thuận về kinh tế và thương mại,
Việt Nam và Trung Cộng đã có 20 văn bản thỏa thuận làm căn bản pháp lý
trong quan hệ giữa Việt Nam với các địa phương bên Trung Cộng. Đó là:
Hiệp định thương mại, Hiệp định mua bán vùng biên giới, Hiệp định thành
lập Ủy Ban Việt-Trung về kinh tế và thương mại.
Hiệp định giao thông đường sắt cao tốc và đường bộ, đường hàng không để
lưu thông hàng hóa giữa địa phương với trung ương Bắc Kinh.
Từ ngày 1-1-2004 Việt Nam và Trung Cộng thực hiện bãi bỏ thuế xuất, nhập
khẩu. Các cặp cửa khẩu hai bên đã được khai thông tạo điều kiện cho
hàng hoá lưu thông tự do, mở ra một thời kỳ giao lưu hàng hóa không biên
giới giữa hai bên.
2). Kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào chính quyền trung ương Bắc Kinh
Hợp tác toàn diện về kinh tế thương mại
- Về đầu tư xây dựng
Nhà thầu Trung Cộng hầu như thắng thầu hầu hết những công trình quan
trọng với loại thầu trọn gói EPC, còn gọi là “hợp đồng trọn gói” hay
“hợp đồng chìa khoá trao tay”. EPC là Engineering , Procurement and
Construction. (Thiết kế, mua sắn, xây dựng).
Hiện nay có 90% gói thầu EPC được giao cho Trung Cộng thực hiện, bao gồm
những dự án lớn và quan trọng về năng lượng (nhà máy điện), kim loại,
hoá chất…điều nầy cho biết Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng rồi.
b. Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
Tại hầu hết các chợ lớn như Đồng Xuân, chợ Hôm, chợ Ngã Tư Sở, chợ Xanh, chợ Long Biên, chợ Ninh Hiệp… tràn lan các mặt hàng Trung Quốc
Hàng hóa độc hại Trung Quốc chiếm lĩnh thị trường Việt Nam
Thương lái Trung Cộng xâm nhập vào các vùng sâu, dùng thủ thuật giá, mua
những thứ như cây tràm cỗ ở Quảng Ngãi, và những thứ không biết để làm
gì, nhưng đã để lại những tác hại vô cùng to lớn. Đó là đánh phá thị
trường VN.
Nông sản, thực phẩm, hàng công nghiệp giá rẻ, mà không được kiểm soát về
chất lượng, vệ sinh, an toàn, thậm chí có những mặt hàng Trung Cộng mà
dán nhãn sản xuất ở VN. Nhiều trường hợp dán cờ Trung Cộng trên các sản
phẩm bày bán ở các siêu thị VN.
Hàng hóa rẻ tiền của Trung Cộng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, giết
chết các công ty trung bình và nhỏ trong nước, đưa đến công nhân thất
nghiệp.
- Nhập siêu của Việt Nam chứng tỏ lệ thuộc kinh tế
Năm 2013, Việt Nam nhập khẩu hàng hóa Trung Cộng (TC) 36tỷ 960 triệu
USD, trong khi đó xuất khẩu chỉ có 13tỷ 960 triệu USD. Đó là nhập siêu.
Sự chênh lệch về cán cân mậu dịch nầy khiến cho VN phụ thuộc vào TC.
TS Lê Đăng Doanh nêu nhận xét: “Mức nhập siêu to lớn nầy gây sức ép rất
nặng khiến cho VN phụ thuộc vào TC: mất ngoại tệ, mất thị trường trong
nước, công nhân mất việc. Khi người dân mua hàng hóa TC đồng nghĩa với
việc trả lương cho công nhân nước nầy”.
- 2.3. Hợp tác toàn diện về văn hóa giáo dục
1). Việt Nam cam kết giáo dục nhân dân về 16 chữ vàng và 4 tốt
Ngày 21-2-2013, Nguyễn Thiện Nhân, ủy viên BCT dẫn đầu đoàn đại biểu cấp
cao sang Bắc Kinh. Hai bên đã ký một thỏa thuận hợp tác toàn diện cho
giai đoạn 5 năm từ 2014-2019.
Nguyễn Thiện Nhân, cựu Bộ trưởng Bộ Giáo dục, cam kết, với tư cách Chủ
tịch Ủy ban Trung Ương Mặt Trận Tổ quốc VN (MT/TQ/VN), ông sẽ vận động
quần chúng nhân dân thực hiện tốt 16 chữ vàng và 4 tốt để hoàn thành tốt
thoả thuận của hai bên từ khi bình thường hóa năm 1990. Ông Nhân cho
biết MT/TQ/VN sẽ triển khai chức năng và nhiệm vụ mới trong Hiến pháp
2013 là “giám sát phản biện xã hội” để tăng cường hiểu biết của nhân dân
Việt Nam với nhân dân Trung Quốc.
Việt Nam sẽ thực hiện Cung Văn hoá Việt-Trung tại Hà Nội. Trong 15 năm,
kể từ 2005 Việt Nam đã cử hơn 100 đoàn đại biểu văn hóa trên các lãnh
vực: báo chí, âm nhạc, điện ảnh, kịch nghệ, truyền hình sang tham quan
học hỏi và trình diễn ở Bắc Kinh.
2). Giáo dục thanh niên
Chủ tịch Ủy ban TƯ MTTQ Việt Nam (Nguyễn Thiện Nhân) và Bí thư Thứ nhất TƯ Đoàn Đoàn TNCS Hồ Chí Minh Nguyễn Đắc Vinh giao lưu với các đại biểu thanh niên hai nước
Hữu nghị giữa hai đoàn thanh niên khu tự trị VN & Trung Quốc
Theo một hiệp định, mỗi năm Trung Cộng cấp 130 suất học bổng cho sinh
viên VN, đồng thời VN chỉ cấp 15 học bổng cho sinh viên Trung Cộng, có
nghĩa là Bắc Kinh đào tạo cán bộ tương lai cho họ.
Việt Nam đưa những đoàn thanh niên sang thăm viếng, hợp tác hữu nghị với
thanh niên sắc tộc của các khu tự trị. Nổi bật nhất là Liên hoan thanh
niên VN-TQ được tổ chức vào ngày 26-11-2013, 3,000 thanh niên do Nguyễn
Thiện Nhân hướng dẫn tham dự liên hoan. Trong diễn văn, ông Nhân cho
biết: “Đây là dịp để thế hệ trẻ hai nước kết chặt quan hệ hai đảng, hai
nước, không ngừng đơm hoa kết trái, vun đắp tình hữu nghị của hai dân
tộc”.
Định hướng dư luận, Lập Viện Khổng Tử, nằm trong hợp tác văn hoá giáo dục cho thanh niên.
16 chữ vàng và 4 tốt là chiêu bài ngụy trang cho chương trình 30 năm để
VN hội nhập vào đại gia đình các dân tộc Trung Quốc, nói thẳng ra là
chương trình bán nước của đảng CSVN.
- 2.4. Trung Cộng di dân vào Việt Nam
Bọn Tàu khựa vào Việt Nam không cần Visa nhập cảnh, nên tự do đi luông
tuồng như đi vào Tây Tạng, Tân Cương, Mãn Châu, Nội Mông. Bọn họ đã có
mặt trên khắp hang cùng ngỏ hẻm của đất nước Việt Nam. Trong 65 khu chế
xuất, khu công nghiệp, không nơi nào vắng bóng người Hoa cả.
Chúng chiếm đóng các vị trí chiến lược, từ việc thuê đất 306,000 hecta
trong 50 năm với giá rẻ mạt ở biên giới phía Bắc, từ Bauxite Tây Nguyên
đến Cà Mau, có thể thành lập nhiều sư đoàn của đạo quân thứ năm với
những công nhân, mà thực chất là binh sĩ, tình báo, đặc công. Họ nắm
trong tay những bản đồ vị trí các nhà máy điện, nhà máy quốc phòng, cơ
xưởng…
Những người di dân tạo lập thành những khu riêng biệt của người Hoa mà công an Việt Nam không được vào đó để kiểm soát.
1). Khu phố Tàu Bình Dương
Tờ Việt Báo tại hải ngoại có bài viết tựa đề: “Cờ Trung Quốc treo rợp Bình Dương: Dân Việt có nguy cơ mất đất”
Theo bài báo thì “Cờ Trung Cộng treo tưng bừng tại Bỉnh Dương để mừng
Quốc Khánh lần thứ 90 của Trung Cộng bởi vì người Hoa đang cư ngụ đông
đảo ở Phố Tàu nơi đây.
Một bài viết có tựa đề “Phố người Hoa, Rừng người Hoa, sòng bạc người
Hoa,…và người Hoa” còn đưa ra quan ngại rằng “trong một tương lai không
xa, con cháu người VN sẽ không còn được sống trên quê hương mình”.
Bài báo viết tiếp:
“Sau Casino của người Hoa ở Đà Nẳng chỉ dành cho người nước ngoài, lại
đến khu phố dành riêng cho người Hoa ở Bình Dương, nơi mà người Việt
cũng không được bén mảng tới. Vậy trong tương lai, người Việt sẽ chỉ
được sử dụng một phạm vi bao nhiêu bởi vì, biển, rừng, đô thị đều có
bóng dáng của người Hoa.
Phố Tàu là khu vực riêng biệt của cộng đồng người Hoa, người Việt khó
chen chân vào. Phố Tàu ở Bình Dương mang tên Trung Tâm Thương Mại Đông
Đô Đại Phố, trong đó có một trường Đại học quốc tế Miền Đông, một bịnh
viện 1,000 giường, một khu phức hợp: thể thao, hội nghị, tiệc cưới, một
sân golf, các cửa hiệu thương mại và một khu giải trí.
Bọn Tàu khựa sinh hoạt theo phong tục tập quán của họ và luật pháp Việt
Nam bị bỏ ra ngoài. Nhân viên công lực VN không được vào kiểm tra cần
thiết để nắm quyền kiểm soát khu vực.
Ngay cả nghĩa địa người Hoa ở Việt Nam cũng là một khu vực riêng biệt bất khả xâm phạm. Vậy hỏi quyền lực quốc gia còn đâu nữa?
6* Những bản tuyên bố chung của lãnh đạo CSVN
- 1. Thỏa thuận 4 điểm của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh
Ngày 22-8-2006, Nông Đức Mạnh sang Bắc Kinh thúc đẩy tăng cường quan hệ toàn diện và nhất trí với Hồ Cẩm Đào 4 khía cạnh:
Thứ nhất. Lãnh đạo cao cấp hai bên phải duy trì “quan hệ gần gũi” thông qua những cuộc viếng thăm cấp cao.
Thứ hai. Quan hệ kinh tế thương mại phải được nâng lên nấc thang cao mới, cụ thể hơn.
Thứ ba. Vấn đề lãnh thổ phải luôn luôn đạt được “sự đồng thuận”, bảo đảm ổn định lâu dài. (Nếu đồng thuận thì ổn định)
Thứ tư. Hai bên thống nhất về chính sách ngoại giao, quốc phòng để có nền tảng phát triển bền vững và hữu nghị.
Năm 2009, tỉnh Hải Nam và Việt Nam nhất trí hợp tác toàn diện về chiến lược quân sự.
(Tại sao một quốc gia lại phải hợp tác với một tỉnh của quốc gia khác?)
- 2. Bản tuyên bố chung của Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào ngày 15-10-2011
- Hai bên đã thông báo cho nhau về tình hình mỗi Đảng, mỗi nước.
- Phía Việt Nam nhiệt liệt chúc mừng 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc vui mừng trước những thành tựu mang tính lịch sử dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
- Hai bên đã nhìn lại và tổng kết 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ (1990), khẳng định tình hữu nghị đời đời Việt-Trung là tài sản quý báu chung của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, cần được không ngừng củng cố, phát triển, truyền mãi cho các thế hệ mai sau.( Thôn tính tương lai)
- 3. Bản tuyên bố chung của Trương Tấn Sang
Trong bản tuyên bố chung ngày 21-6-2013 được ký bởi Trương Tấn Sang và Tập Cận Bình, có đoạn ghi như sau:
– Dân sự: Đào tạo nhân dân, văn hóa, giáo dục, y tế,
sản xuất, chế biến. Khai thác lãnh thổ, lãnh hải, đất liền, biên giới,
cửa khẩu, biển Đông, rừng núi, đầu tư, khoa học, công nghệ, kinh tế,
thương mại, môi trường, nông nghiệp, ngư nghiệp, dầu khí, giao thông,
vận tải và du lịch.
– Chính trị: Xây dựng nguồn máy đảng, và nhà nước xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Tham vấn chính phủ, ban tuyên giáo, ban đối
ngoại trung ương, ban lý luận, đào tạo hữu nghị quân, dân, cán chính cao
cấp.
– Quân sự: Quân đội, quốc phòng, khí tài, an ninh, ngoại giao.
Kế hoạch toàn diện qui định mỗi bộ phận đặt đường dây nóng tự quản và kết nối quản trị Bắc Kinh.
(Đường dây nóng tự quản với Bắc Kinh là nhận lịnh trực tiếp từ chính quyền trung ương ở Bắc Kinh)
Ngoài ra, đảng CS và nhà nước Việt Nam, ưu tiên để 4 tỉnh phía Nam Trung Quốc, như Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam được hưởng
đặc quyền khai thác toàn diện trên 7 tỉnh biên giới của Việt Nam, như
Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Người Trung Quốc được hưởng qui chế “bất xâm phạm” từ khi có mặt tại Việt Nam để thi hành công tác khai thác toàn diện trên lưng người Việt Nam.
“Hai bên nhất trí tăng cường hơn nữa sự hợp tác giữa các tỉnh, khu vực của hai nước,
nhất là giữa 7 tỉnh của Việt Nam: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh, hợp tác toàn diện với 4 khu tự
trị của Trung Quốc gồm có: Quảng Đông, Quảng Tây, Hải Nam, Vân Nam”.
Trước hết Trung Cộng muốn Việt Nam hội nhập với 4 khu tự trị để trở
thành 5 khu tự trị gồm có: Mãn, Tạng, Hồi, Mông và khu tự trị mới là
Việt Nam. Và cờ Trung Cộng trở thành 6 ngôi sao mà VN đã dùng để chào
mừng Tập Cận Bình vừa qua.
Thực tế là chỉ có 3 tỉnh của Trung Cộng mà đòi hợp tác toàn diện với 7
tỉnh Việt Nam, tạo điều kiện dễ dàng và hợp pháp cho thương lái, nhân
viên Trung Cộng được đi khắp mọi nơi để nắm tình hình các mặt, biết rõ
địa hình địa vật, đường đi lối về, tài nguyên, khoáng sản, đặc sản để
khi cần thì xử dụng.
Trên Facebook, nhà bình luận Trần Trung Đạo nêu nhận xét như sau: “Đọc
bản tuyên bố chung mới thấy số phận chùm gởi của CSVN phụ thuộc sâu xa
vào cây cổ thụ già Cộng Sản Trung Quốc đến mức độ nào. Sự khiếp nhược và
ươn hèn thể hiện rõ đến mức chỉ trong một văn bản 8 điểm mà có tổng
cộng 29 lần “nhất trí”.
7* Cộng Sản Việt Nam bị cấy sinh tử phù
Trung Cộng đang nắm trong tay những con bài tẩy bằng văn bản chính thức
đã được các lãnh đạo CSVN ký và cam kết thi hành. Công hàm bán nước Phạm
Văn Đồng chỉ là con bài thứ nhất mà thôi. Những lá bài khác như biên
bản bí mật ở Thành Đô năm 1990 và những bản tuyên bố chung đã được ký
kết như đã nêu trên.
Thiên la địa võng đã bày ra để khống chế và trừng trị Hán ngụy Việt Nam
nếu phản chủ. Các vị trí chiến lược chủ yếu như rừng đầu nguồn, Lào,
Campuchia, Tây Nguyên, hệ thống giao thông cao tốc xuyên Việt…và những
sư đoàn của đạo quân thứ năm dưới lớp áo công nhân, thương nhân…khiến
cho số phận của lãnh đạo CSVN thê thảm như con cá nằm trên tấm thớt của
Trung Cộng.
Khi Tập Cận Bình niệm thần chú thì bộ tứ “hùng dũng sang trọng” vừa ôm đầu vừa gật đầu lia lịa.
8* Vì sao Trung Cộng không muốn đưa nội vụ ra tòa án quốc tế?
Ngày 2-6-2014 báo South China Morning Post tường thuật rằng ngày
1-6-2014 Thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh cho biết Hà Nội vẫn chưa
quyết định bao giờ sẽ yêu cầu toà án trọng tài quốc tế phân xử tranh
chấp, nhưng nói đó là tùy thuộc vào hành động của Trung Quốc.
Trước đó, Nguyễn Tấn Dũng cũng cho biết là VN đã chuẩn bị bằng chứng cho
hồ sơ pháp lý nầy, nhưng mọi việc sẽ do Bộ Chính Trị quyết định.
Ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban Biên giới Chính phủ lại lên tiếng là kiện chẳng ăn thua gì.
Có thể dùng câu “Đừng nghe những gì Cộng Sản nói, hãy nhìn kỹ những gì Cộng Sản làm” để biết bản chất của CSVN trong vấn đề nầy.
Vì sao Trung Cộng không muốn nội vụ được đưa ra toà án quốc tế?
Không phải TC sợ bị thua kiện, vì họ đã có khả năng vô hiệu hóa vụ kiện
100% bởi quyền phủ quyết ở HĐ/BA/LHQ, mà cũng không phải vì Trung Cộng
sợ dư luận quốc tế, vì nếu sợ thì đã không làm ngang tàng như thế..
Điều mà Trung Cộng mong muốn là “những mâu thuẩn trong gia đình” phải để
gia đình giải quyết. Tập quán Á Đông là nếu đưa chuyện nội bộ gia đình
ra ngoài thì chẳng khác gì “vạch áo cho người xem lưng”. Điều Trung Cộng
muốn là Việt Nam phải là một trong đại gia đình các dân tộc Trung Quốc
mà Nguyễn Văn Linh đã lặn lội từ Hà Nội đến Thành Đô để thỉnh cầu hồi
năm 1990.
Đây là phép thử, xem CSVN có đủ can đảm để thoát ra đại gia đình các dân tộc TQ đó không?
Nếu quan sát kỹ những tuyên bố của Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Chí Vịnh và
Trần Công Trục nêu trên, thì có thể đoán được lãnh đạo CSVN vẫn còn hèn
nhát, vì không dám phản chủ, nên chỉ dám nói mà không dám làm. Hơn nữa
Việt Cộng đã bị cấy sinh tử phù và niền chiếc vòng kim cô lên đầu rồi
thì chẳng còn hành động can đảm nào nữa cả.
Hãy chờ xem!
9* Kết luận
Giả sử như Wikileaks không tiết lộ biên bản bí mật ở hội nghi Thành Đô
năm 1990, hoặc xem như không có nó, thì những hành động của đảng CSVN
cũng đã bị lên án là bán nước, hèn nhát vì đã đặt đất nước, dân tộc Việt
Nam dưới tay bọn Trung Cộng. Sự thật hiển nhiên đó không thể chối cãi
được.
Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Cộng từ lâu rồi. Ông Vương Gia Thụy,
Trưởng ban Đối ngoại Trung Cộng, đã nêu những bằng chứng cho thấy Việt
Nam đã được sát nhập vào Trung Cộng, như sau: “Việt Nam và Trung Quốc đã
hợp tác chiến lược toàn diện. Cơ chế xã hội giống hệt nhau. Con đường
phát triển tương tự như một. Quan hệ hai nhà nước ổn định và cùng một
mục đích phát triển chấn hưng sự nghiệp Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Đảng CSVN là tội đồ của dân tộc. Hãy đối chiếu với di chúc của vua Trần
Nhân Tông thì thấy rõ ngay. Nhà vua di chúc: “Cái họa lâu đời của ta là
họa Trung Hoa. Một tấc đất của tiền nhân để lại cũng không để lọt vào
tay kẻ khác. Ta để lời nhắn nhũ nầy như là một lời di chúc cho muôn đời
con cháu về sau” (Vua Trần Nhân Tông)
“Các vua Hùng có công dựng nước. Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán nước!”.
Trúc Giang
No comments:
Post a Comment