Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn
chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế
gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng
nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.
Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội
liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và
ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:
1- Tôn giáo: Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật
không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh
muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.
2- Tín ngưỡng: Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo
Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ
dung tục của đời thường.
3- Triết học: Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ
Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải
là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán” rồi “đoán” như của Tây phương.
4- Triết luận: Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không
sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái
Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái
thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay
“thiền” mà còn “luận” (thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.
5- Từ thiện xã hội: Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội
nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo
vuông một cách uổng phí. Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: Đó là giáo
dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa. Từ thiện xã hội
thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như
Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Học
viết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, môt
chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là
sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian. Còn nữa, nếu không có tu tập
thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không
phải là của đạo Phật đâu!
6- Cực lạc, cực hạnh phúc: Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các
tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc
(dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh
phúc được phóng đại như thế.
7- 8 vạn 4 ngàn pháp môn: Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp
uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn
(khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có
nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm
định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra),
pháp môn nên ai cũng tưởng là có 8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào
cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin
lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không
kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn
lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn
cách tu...
8- Xin xăm, bói quẻ, cầu sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu:
Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn:
“Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃsupabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca
suyiṭṭaṃ brahmacārisu.
Padakkhinaṃ kāyakammaṃ vācākammaṃ padakkhinaṃpadakkhinaṃ manokammaṃ paṇidhī
te padakkhinā...”
Có nghĩa là: Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong
sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt...
Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát
đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp
thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt
(chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiêu ích).
9- Định mệnh: Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo
chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ,
gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do
trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của
Bà-la-môn giáo.
10- Siêu độ, siêu thoát: Không có bài kinh nào, không có uy lực
của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương
linh, vong linh, chân linh cả. Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư
tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và
hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì. Có thể có hai trường hợp:
- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có
thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết”
hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.
- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi
khác rồi, ngay tức khắc. Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh
hồi hướng phước ấy cho người đã mất.
Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát
mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. Tu dựa vào tha lực cũng
tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: “Tự mình thắp đuốc mà đi,
tự mình là hòn đảo của chính mình”.
Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy
cho người quá vãng mà thôi. Họ không có uy lực ban phước lành cho ai cả.
11- Huyền bí, bí mật: Giáo pháp của đức Phật không có cái gì được
gọi là huyền bí, bí mật cả. Đức Phật luôn tuyên bố là “Như Lai thuyết pháp với
bàn tay mở ra”; có nghĩa là ngài không có pháp nào bí mật để giấu kín cả!
12- Tâm linh: Ngày nay, người ta tràn lan lễ hội, tràn lan mọi
loại điện thờ với những hình thức mê tín, dị đoan, sa đoạ văn hoá... mà ở đâu
cũng rêu rao các giá trị tâm linh. Đạo Phật không hề có các kiểu tâm linh như
vậy. Thuật ngữ tâm linh này được du nhập từ Trung Quốc. Và rất tiếc, tôi không
hề tìm ra nguồn Phật học Pāli hay Sanskrit có từ nào tương thích với chữ “linh”
này cả!
13- Niết-bàn: Nhiều người tưởng lầm Niết-bàn là ở một cõi nào đó,
một nơi chốn nào đó; thậm chí là ở một thế giới ở ngoài thế gian này. Người nào
tìm kiếm Niết-bàn kiểu ấy, thuật ngữ thiền tông có cụm từ “lông rùa, sừng thỏ”
như ngài Huệ Năng đã nói rõ: “Phật pháp tại thế gian. Bất lý thế gian giác. Ly
thế mịch bồ-đề. Cáp như tầm thố giác”. Thố giác là sừng thỏ. Và giác ngộ cũng
vậy, chính ở trong khổ đau, phiền não mới giác ngộ bài học được.
14- Bỏ khổ, tìm lạc: Tu Phật không phải là bỏ khổ, tìm lạc. Xin
lưu ý cho: Khổ và Lạc chính là căn bản của phiền não!
15- Tu để được cái gì! Có nhiều người nghĩ rằng, tu là để được cái
gì đó. Xin thưa, được cái gì là sở đắc. Ai sở đắc? Chính là bản ngã sở đắc. Đạo
Phật là vô ngã. Hãy xin đọc lại Bát-nhã tâm kinh.
16- Tu là sửa: Nếu tu là sửa thì mình đã từ “cái ta này” biến
thành “cái ta khác”. Nếu tu là không sửa thì cứ để nguyên trạng tham sân si như
vậy hay sao? Xin thưa, sửa hay không sửa đều trật. Đạo Phật quan trọng ở Cái
Thấy! Có Cái Thấy mới nói đến giác ngộ và giải thoát. Không có Cái Thấy này thì
tu kiểu gì cũng trệch hướng hoặc rơi vào phước báu nhân thiên.
17- Vía: Đạo Phật không có vía nào cả. Vía, hồn, phách là quan
niệm của nhân gian. Ví dụ, ba hồn bảy vía. Ví dụ, nam thất, nữ cửu – nam bảy
vía, nữ chín vía. Nếu là nam thất, nữ cửu thì nó trùng với nam 7 khiếu, nữ 9
khiếu. Vía là phần hồn. Không có cái hồn, cái linh hồn tự tồn tại nếu không có
chỗ nương gá. Vía không độc lập được. Như danh - phần tâm, sắc - phần thân –
luôn nương tựa vào nhau. Chỉ có năng lực thiền định mới tạm thời tách lìa danh
ra khỏi sắc, như Cõi trời Vô tưởng của tứ thiền. Tuy nhiên, cõi trời Vô tưởng
hữu tình này không phải là không có danh tâm mà chúng ở dạng tiềm miên. Còn các
Cõi trời Vô sắc thì sắc không phải là không có, chúng cũng ở dạng tiềm miên.
Thật đáng phàn nàn, Phật và Bồ-tát đều có “vía” cả! Và cũng thật là “đau khổ”
khi trong lễ an vị Phật, người ta còn hô “Thần nhập tượng” nữa chứ!
18- Bồ-tát: Bồ-tát là âm của chữ Bodhisatta: Chúng sanh có trí
tuệ. Vậy, chúng ta tạm thời bỏ quên “khái niệm Bồ-tát” quen thuộc trong kinh
điển mà trở về với nghĩa gốc là “chúng sanh có trí tuệ”. Và như vậy, sẽ có hạng
chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Thanh Văn; chúng sanh có trí tuệ với
nguyện lực Độc Giác; chúng sanh có trí tuệ với nguyện lực Chánh Đẳng Giác.
Ngoài 3 loại chúng sanh có trí tuệ trên – không có loại chúng sanh có trí tuệ
nào khác.
19- Phật: Phật là âm của chữ Buddha, nghĩa là người Giác ngộ. Vậy
chúng ta nên tạm thời bỏ quên “khái niệm Phật” từ lâu đã mọc rễ trong tâm thức
mà trở về nghĩa gốc là bậc Giác ngộ. Vậy, có người Giác ngộ do nghe pháp từ bậc
Chánh Đẳng Giác, được gọi là Thanh Văn Giác. Có người Giác ngộ do tự mình tu
tập vào thời không có đức Chánh Đẳng Giác, được gọi là Độc Giác. Có vị Giác ngộ
do trọn vẹn 30 ba-la-mật, trọn vẹn minh và hạnh nên gọi là Chánh Đẳng
Giác.
Không có vị Giác ngộ (Phật) nào ngoài 3 loại Giác ngộ trên.
20- Thể nhập: Tu là không thể nhập vào cái gì cả. Thể nhập là bỏ
cái ngã này để nhập vào cái ngã khác. Cãi ngã khác ấy có thể là dòng sông, có
thể là ngọn núi, có thể là một cội cây, có thể là một thần linh, thượng đế. Cái
cụm từ “thể nhập pháp giới” rất dễ bị hiểu lầm. Khi đi, chánh niệm, tỉnh giác
trọn vẹn với cái đi; khi nói, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái nói; khi
ăn, chánh niệm, tỉnh giác trọn vẹn với cái ăn – thì đấy mới đúng nghĩa “thể
nhập pháp giới”, ngay giây khắc ấy, mọi tham sân, phiền não không có chỗ để
phan duyên, sanh khởi.
Ngoạ Tùng Am, Sơ Xuân 2015
No comments:
Post a Comment