Bác bỏ năm luận điểm và là 5 câu hỏi của ông Bùi Tín
Ông Bùi Tín đã hùng hồn nêu ra 5 câu hỏi cho học giả Đài Loan để làm 5
luận điểm chứng minh ông HCM với NAQ là một, tức là để khẳng định cuộc
đánh tráo là không thể có. Tôi thấy đó là những câu hỏi rất ngây ngô ngộ
nhận mà chỉ cần một người bình thường như tôi cũng có thể đưa ra các
câu trả lời hay bẻ gãy lập luận của ông Bùi Tín. Và đó là việc tôi sẽ
làm ở đây.
Câu hỏi đầu tiên ông Bùi Tín đưa ra là, tại sao trong kho hồ sơ
lưu trữ của đảng CSLX không có tài liệu về việc bà Vera Vasilieva theo
dõi việc đào tạo Hồ Tập Chương thành Nguyễn Ái Quốc tại Moscow những năm
1933-1938? Cộng sản nói chung trên toàn thế giới - cả đảng CSLX
hồi đó và đảng CSVN hiện nay - với bản chất là luôn gian dối, có một
“văn hóa” lưu trữ hồ sơ khác mọi chế độ: họ chỉ lưu trữ hồ sơ tự tạo ra
theo ý muốn và quyền lực của những người cầm quyền hay ý muốn của đảng,
hoặc họ không cần có hồ sơ lưu trữ gì cả, hoặc họ luôn thay đổi các sự
kiện sao cho có lợi cho họ và bất chấp lịch sử, để lưu hồ sơ sao cho “có
lợi cho cách mạng”. Với họ, không có khái niệm sự thật hay lịch sử
khách quan, chỉ có cái gọi là “lịch sử trong con mắt biện chứng của
đảng” - tức do họ chế tác ra. Ông Bùi Tín là người làm báo cộng sản hẳn
biết rất rõ điều đó. Những năm 30s thế kỷ trước còn là thời đại khủng bố
và thanh trừng nội bộ tàn khốc của Stalin-Beria khi họ thường thủ tiêu
người không cần bản án, hồ sơ... thì việc gian dối thay người này bằng
người khác “vì lợi ích cách mạng quốc tế” là chuyện cỏn con họ càng
không cần hồ sơ và không muốn để lại hồ lưu trữ. Và nếu có chút ít hồ
gián tiếp nào đó thì khả năng sau đó nước Nga rơi vào đại chiến 2 làm
tan hoang cả Châu Âu và khả năng bảo tồn được các hồ sơ đó cũng rất
thấp. Thêm nữa, sau chiến tranh Stalin cho giải tán Comintern là bộ phận
QTCS của bà Vera Vasilieva người có thể đã phụ trách việc này, thì việc
hy vọng vào hồ sơ lưu trữ của đảng CSLX là không tưởng. Xin hỏi ông Bùi
Tín, liệu trong lưu trữ của đảng CSLX có tìm thấy hồ sơ về hàng vạn
hàng triệu vụ tàn sát các đảng viên cộng sản Nga và Đông Âu để giải oan
cho họ không? Hay trong hồ sơ lưu trữ của đảng CSVN có hồ sơ về hàng
trăm ngàn vụ giết oan nông dân, địa chủ như vụ bà Cát Hanh Long không?
Câu hỏi thứ hai của ông Bùi Tín là, tại sao năm 1960 khi gặp HCM luật sư Frank Loseby vẫn nhận ra đó là “người cũ” - NAQ?
Xin thưa, như đại đa số người châu Âu bình thường ông Loseby khó mà
phân biệt chính xác hai người Á châu cùng tuổi cùng giới khi ông còn trẻ
và minh mẫn hoàn toàn, và năm 1960 khi đến Hà Nội Ls Loseby đã gần 80
tuổi sau gần 30 năm cứu NAQ ở Hongkong, chắc chắn ông chỉ có một câu trả
lời: HCM chính là NAQ mà ông đã gia ơn năm xưa, nhất là nay kẻ chịu ơn
ông đó đã là Chủ tịch một đất nước mấy chục triệu dân. Hơn nữa, từ trước
đó vài năm, từ 1956, HCM đã liên tục chuẩn bị cho ông Loseby “nhận ra”
mình bằng cách viết thư tự giới thiệu lại và thăm hỏi, gửi quà (bức
tranh thêu chùa Một Cột) và gửi ảnh của mình (Chủ tịch HCM) cho Loseby,
thì làm sao Ls Loseby có thể có nghi ngờ gì nữa? Và khi đã không có nghi
ngờ trong lòng thì đôi mắt của ông già 80 đang vinh dự là ân nhân của
chủ tịch một nước làm sao có thể nhìn ra gì khác nữa? Thực ra, có thể
ông HCM đã cố tình chỉ sử dụng ông già Loseby cho mục đích đó: xác nhận
NAQ là HCM. Còn nếu để tỏ lòng biết ơn cứu mạng, tại sao HCM không viết
thư cho Ls Loseby từ hơn chục năm trước đó, từ 1945 chả hạn?
Câu hỏi và luận điểm thứ ba của ông Bùi Tín là, tại sao năm 1946
khi sang lại Pháp HCM đã gặp lại các bạn cũ mà không ai nghi ngờ HCM
không phải NAQ? Về điều khẳng định này, chỉ xin ông Bùi Tín đưa ra
những cái tên và tài liệu chứng minh, ai là những người “bạn cũ” - cả
người Việt lẫn người Pháp - mà HCM gặp trong chuyến đi Pháp năm 1946 mà
trước đó đã biết rõ NAQ? Câu trả lời đơn giản là không có ai hết, và
không có tài liệu nào hết ghi nhận lại những cuộc gặp như thế cả. Năm
1946 những bạn cũ người Việt của NAQ biết rõ NAQ ở Pháp hầu như không
còn ai và chắc chắn không ai gặp chủ tịch HCM cả. Trong chuyến đi đó,
xung quanh HCM và đến gặp HCM toàn những người của thế hệ sau mới nghe
danh chủ tịch mà đến như Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Văn
Huyên...
Câu hỏi và luận điểm thứ tư của ông Bùi Tín là việc bà Thanh chị
NAQ năm 1946 đến phủ chủ tịch và vẫn nhận ra HCM là “thằng Coong có sẹo
tai trái khi đi câu cá” và cả ông Cả Khiêm cũng nhận ra em mình?
Ông Bùi Tín cũng biết rõ là bà Thanh bất ngờ ra Hà Nội và chỉ được gặp
“thằng Coong” vài phút và hai người đã nói gì trong vài phút đó đến nay
vẫn không ai biết. Vụ “thằng Coong có sẹo tai trái” là do bà Thanh sau
này nhìn ảnh chủ tịch HCM thấy có sẹo tai trái mới nhớ ra hồi đó “thằng
Coong” đi câu cá bị lưỡi câu móc vào tai... Nhưng bà Thanh lại quên hay
không được xem ảnh “thằng Coong” tức Nguyễn Tất Thành lúc sang Pháp tai
không có sẹo và vểnh ra và chọc lên như tai... Hồ chủ tịch.
Vụ cái tai sẹo chắc đã làm “thằng Coong” sợ hú vía nên “Coong” mới
phải thiết kế cuộc gặp anh cả Khiêm mấy năm sau đó vào buổi tối nhà quê
không điện, nhá nhem, để hai “anh em” hàn huyên chuyện cũ và... cũng
chớp nhoáng như gặp chị Thanh, vì “bận việc cách mạng”! Ông cả Khiêm chả
kịp nhận ra cái sẹo nào của “thằng Coong” thì đã ra đi ngay năm đó,
1950... Chưa ai được nghe ông cả Khiêm nói bất cứ điều gì về “thằng Coong”
sau cuộc hội ngộ trong bóng đếm và không có người thứ ba đó cả? Ông Bùi
Tín có thể lấy gì làm chứng để nói ông cả Khiêm đã nhận ra hay không
nhận ra “thằng Coong”? Cả “thằng Coong” cũng kín như bưng đến khi vào
nằm trong lăng Ba đình...
Luận điểm hay câu hỏi thứ năm của ông Bùi Tín là, tại sao nhiều
người quen NAQ trước năm 1933 sau này làm việc với HCM vẫn không ai nghi
ngò HCM không phải là NAQ? Đây là câu hỏi hay ho nhất và khó trả
lời nhất của ông Bùi Tín, vì lần này ông đưa ra ba cái tên cụ thể:
Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt và Phùng Chí Kiên.
Người thứ nhất, có lẽ ông Bùi Tín đã nhầm, vì Hoàng Quốc Việt chỉ gặp
HCM tại Hội nghị TW đảng lần VIII năm 1941 tại Pắc Bó và không biết NAQ
là ai?
Người thứ hai, Nguyễn Lương Bằng năm 1927-1928 được cử đi dự lớp đào
tạo của TNCM ĐCH tại Hương cảng do NAQ tổ chức nhưng chưa đến nơi thì
lớp học bị cảnh sát HK vây bắt nên phải giải tán và sau đó NAQ sang
Thailand, còn Nguyễn Lương Bằng về nước, sau này đến 1941 NLB mới gặp
HCM. Sở dĩ có sự ngộ nhận rằng NLB biết cả NAQ và HCM là do danh sách
lớp học ở HK rơi vào tay mật vụ Pháp nên NLB bị bắt, và bản thân NLB
cũng đã ghi trong lý lịch là mình được đi dự lớp đào tạo do NAQ mở
(đúng), nhưng quên không khai là lớp đó không thực hiện được do bị cảnh
sát HK bắt bớ phải giải tán...
Người thứ ba, Phùng Chí Kiên, biết rõ NAQ: đã dự lớp đào tạo của NAQ ở
HK năm 1926, đã sang học trường Phương Đông ở Moscow rồi về hoạt động ở
TQ, VN. Năm 1938-39 đã gặp HCM (Hồ Quang) ở TQ, cùng hoạt động một thời
gian rồi đưa HCM về chiến khu Việt Bắc (hang Pắc Bó), rồi dự HN TW 8...
Vấn đề là ở chỗ đến 1956-1958 HCM mới chính thức nhận mình là NAQ, còn
khi làm việc với PCK ở VN và TQ thì HCM chỉ là HCM thôi. Ngay năm 1941,
trung đội Bắc Sơn của PCK đã “vô tình” bị trên 4000 lính Pháp vây đánh
và Phùng Chí Kiên cùng người phó Lương Văn Tri (cũng biết rõ NAQ là ai)
bị Pháp giết... Như vậy PCK chưa bao giờ phải băn khoăn HCM có phải là NAQ
không thì ông Bùi Tín muốn chứng mình điều gì?
Nói hộ Bùi Tín về những người biết rõ cả HCM và NAQ
Tôi vừa ngạc nhiên vừa không ngạc nhiên khi thấy ông Bùi Tín không
đưa ra hai cái tên Trịnh Đình Cửu và Hồ Tùng Mậu là hai người đã cùng
NAQ tham gia thành lập đảng CSĐD ở Hương cảng năm 1930 và sau này đã
tham gia kháng chiến chống Pháp cùng HCM, để chứng mình HCM là NAQ.
Sau khi nghiên cứu tiểu sử của trên một trăm hai mươi yếu nhân lịch
sử dân tộc Việt cùng thời với NAQ, tôi thấy có ba mươi tư người (34) đã
biết rõ NAQ trước 1933 như cụ Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Thế Truyền, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong... thì
ba mươi người đã “ngẫu nhiên” bị chết/giết chết trước-trong-và sau khi
HCM xuất hiện và không gặp được HCM, chỉ còn có 4 người được cho là biết
NAQ mà vẫn sống sót để làm việc với cả HCM sau này, đó là: Nguyễn Lương
Bằng, Phùng Chí Kiên, Hồ Tùng Mậu và Trịnh Đình Cửu.
Tôi muốn nói thêm về Hồ Tùng Mậu vốn là trợ lý giảng dạy cho NAQ ở
Hongkong cho các lớp đào tạo của TNCMĐCH, cùng tham gia thành lập đảng
CSĐD năm 1930 với NAQ, và là người đã liên hệ với đảng CSTQ và để nhờ
cứu NAQ bị bắt ở HK năm 1931. Đảng CSTQ đã báo cho QTCS nhờ Công hội Đỏ
thuê luật sư Loseby cái cho NAQ... Ông Hồ Tùng Mậu là bạn thân, đồng
hương xứ Nghệ, là cấp dưới hay đồng cấp của NAQ từ trước 1930, là ân
nhân góp phần cứu NAQ ra từ năm 1933. NAQ là bạn thân của cả gia đình họ
hàng HTM vì gia đình HTM rất danh giá.
Thế mà năm 1945 khi HCM lên là Chủ tịch nước còn HTM ra tù về Hà Nội thì
không được gặp HCM, phân vân không biết HCM có phải NAQ? HTM được HCM cử
vào phụ trách liên khu V để rồi bị “máy bay Pháp bắn chết” năm 1951.
Đáng ngờ hơn nữa là trước đó, năm 1948, con trai HTM là Hồ Mỹ Xuyên lúc
đó 28 tuổi đang là phó bị thư tỉnh ủy Nghệ An được/bị HCM điều ra Đặc ủy
đoàn ở Lao Cai và bị “tai nạn” chết ở đó (vì Hồ mỹ Xuyên cũng biết rõ
NAQ là ai?). Sau khi Mỹ Xuyên chết, HCM “đánh máy ngay” thư chia buồn
cho “bạn thân” HTM... Cả HTM và HMX đều không gặp HCM.
Câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ
Tóm lại là, không có một ai thực sự biết rõ cả NAQ và HCM cả, trừ
Trịnh Đình Cửu (Tản Anh). Trịnh Đình Cửu cũng là một trong 7 (hay 8?)
người tham gia thành lập đảng năm 1930 ở Hongkong và đến 1990 mới chết với
chức vụ cuối cùng là giám đốc trường đảng NAQ! Nhưng TĐC có 13 năm lý
lịch từ 1936 (sau khi ra tù) đến 1949 “biến mất”, không ai biết đã làm
gì ở đâu? Đó cũng là những năm tình báo Hoa Nam đã đào tạo ra các “lãnh
tụ” của các đảng CS chấu Á như đồng chí Lai Teck của đảng CS Malaysia.
Nếu Trịnh Đình Cửu bị Hoa Nam bắt để khai thác và thay người của mình
thì 13 năm đó là quá thừa, làm gì cũng được, và vì thế chắc chắn là TĐC
đã không hề nhận ra HCM và NAQ là hai người, như ông Bùi Tín muốn chứng
mình. Sao ông Bùi Tín không đưa ra cái tên Trịnh Đình Cửu nhỉ?
Có lẽ đảng CSVN cũng biết rõ Trịnh Đình Cửu cũng là tác phẩm của Hoa
Nam đánh tráo, nên chỉ nâng bi một HCM là quá đủ “nặng đô” rồi?
Cuối cùng thì, HCM có phải là NAQ? Theo tôi chắc là không. Nhưng HCM
có lẽ cũng không phải là Hồ Tập Chương từ Đài Loan đến. Hồ Chí Minh rất
có thể là một người Việt gốc Hoa ở Nghệ An được tình báo Hoa Nam chuẩn bị để thay
NAQ sau khi NAQ chết ở HK. Giống như Hoa Nam đã chọn và đào tạo một
người Việt gốc Hoa khác từ Nghệ An là Trương Phước Đạt từ năm 1933 đến
1938 thành tổng bí thư đảng CS Malaysia vậy thôi? Và Hồ Chí Minh nếu từ
người Hoa ở Vinh thì có thể là họ hàng với người Tàu họ Hồ ở Đài Loan?
Điều quan trọng là, chúng ta hãy để ý, việc cứu NAQ ở HK bắt đầu từ
chính đảng CSTQ do Hồ Tùng Mậu báo tin và cậy nhờ... Và có lẽ vì thế mà
cha con ông Hồ Tùng Mậu phải chết mà không biết HCM có phải NAQ hay
không?
Câu hỏi đó, theo tôi, đến nay vẫn chưa có câu trả lời chính thức và thuyết phục.
Đọc thêm:
Đảng ta
Trần Thắng Lợi (Hồ Chí Minh)
Nguồn: Hồ Chí Minh toàn tập,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tập 5
(Tặng các đồng chí chi bộ)
Năm 1847, Mác và Ăngghen phát biểu “Tuyên ngôn
Đảng Cộng sản”. Sau 70 năm cách mạng Nga thành công. Sau 98 năm cách mạng Việt
Nam thành công. Hiện nay, nước nào cũng có Đảng Cộng sản và chủ nghĩa cộng sản
đang lan tràn khắp thế giới. 20 triệu đảng viên cộng sản khắp các nước đang
hăng hái lãnh đạo hàng trăm triệu người lao động và dân tộc bị áp bức, đấu
tranh cho cuộc giải phóng của mình, cho một xã hội mới, cho chủ nghĩa cộng sản.
Đảng ta tuy trẻ trung, nhưng đã lập được những
công trạng rất to tát.
Nhân ngày kỷ niệm thành lập Đảng, tôi nhắc lại vài mẩu chuyện của
Đảng cho các đồng chí trẻ biết, chứ không phải viết lịch sử Đảng.
Năm 1921, trong cuộc Đại hội của Đảng Xã hội Pháp
mở ở Tua (Tours), Đảng ấy chia làm hai phái. Phái thiểu số thì cứ giữ lấy Đảng
Xã hội cũ. Phái đa số thì lập thành Đảng Cộng sản Pháp. Trong phái này có một người cộng sản đầu tiên của
Đông Dương là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, chủ nghĩa cộng sản bắt đầu
vượt qua lưới sắt của chủ nghĩa đế quốc Pháp và dần dần thấm vào nước ta.
Năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc cùng anh em
cách mạng Việt Nam ở Quảng Châu tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội. Hội này đưa thanh niên trong nước ra Quảng Châu, huấn luyện họ, rồi phái
họ trở về tuyên truyền và tổ chức khắp cả nước.
Năm 1929, trong khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc đi
vắng, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội khai toàn quốc Đại hội ở Hương
Cảng. Đại biểu Bắc Kỳ đề nghị tổ chức đảng cộng sản, bị gạt đi, liền bỏ hội
nghị ra về.
Sau đó, trong nước dần dần thành lập ba nhóm cộng
sản: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương cộng sản Liên
đoàn.
Một nước mà ba đảng cộng sản. Cả ba nhóm đều ngầm
hiểu như thế là sai. Quần chúng đều hiểu rằng như thế là không đúng. Cả ba nhóm
đều tìm cách để đi đến thống nhất. Nhưng bệnh hẹp hòi và cách làm không khéo,
cho nên càng muốn gần nhau, lại càng xa nhau.
Cuối năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở lại
Tàu, cùng với đại biểu các nhóm khai hội ở Hương Cảng.
Trong 7, 8 đại biểu, ngoài đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi, nay
chỉ còn đồng chí Hồ Tùng Mậu và đồng chí Trịnh Đình Cửu, đồng chí Tản Anh và
vài đồng chí nữa đều oanh liệt hy sinh cho Đảng và cho dân tộc lâu trước ngày
Cách mạng Tháng Tám.
Để giữ bí mật, các đại biểu khai hội bên sân đá
banh của người Tàu. Vừa giả xem đá banh, vừa bàn bạc về Đảng.
Sau cuộc bàn bạc sôi nổi, và sau lời giải thích
rõ ràng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, mọi người đều tán thành thống nhất cả ba
nhóm thành một đảng.
Thế là Đảng ta chân chính thành lập.
Đó là ngày lịch sử mồng 6-1-1930.
Sự thống nhất làm cho đảng viên và quần chúng cả
nước rất vui mừng và thêm hăng hái. Do đó mà Đảng phát triển rất mau, hoạt động
rất mạnh. Từ đó trở đi, phong trào cách mạng ở nước ta đều do Đảng ta lãnh đạo.
Vì có một chủ nghĩa cách mạng nhất, một tổ chức
chặt chẽ nhất, chí hy sinh tận tuỵ không bờ bến của đảng viên, có sự hăng hái
vô cùng của quần chúng, nên Đảng ta thành lập không bao lâu, đã lãnh đạo được
cuộc khởi nghĩa Nghệ Tĩnh, thành lập Xô viết Nghệ An. Nếu so sánh lịch sử cách
mạng các nước, chúng ta có thể nói rằng Xô viết Nghệ An đối với Việt Nam cũng
hơi giống cách mạng 1905 Nga.
Xô viết Nghệ An đã lôi cuốn được cả công nhân,
nông dân và học sinh. Đã lập nên chính quyền nhân dân. Đã làm cho giặc Pháp
kinh sợ. Thật là một cuộc cách mạng oanh liệt đầu tiên do giai cấp vô sản Việt
Nam lãnh đạo.
Giặc Pháp đàn áp một cách vô cùng dã man. Hàng
ngàn hàng vạn đảng viên và quần chúng bị giết chết, bị tù đày. Giặc Pháp đã xoa
tay mừng rằng cách mạng Việt Nam, cộng sản Việt Nam hết rồi. Chúng nào có hiểu:
Có thể ngăn sông, có thể đào núi, nhưng không có lực lượng nào có thể ngăn trở
chủ nghĩa cộng sản phát triển và thực hiện.
Sau trận khủng bố ghê gớm 1930-1931, năm 1933
Đảng lại hoạt động mạnh và càng ngày càng mạnh.
Nói đến đây, tôi phải nhắc đến những đảng viên đã
vì Đảng, vì giai cấp, vì dân tộc mà oanh liệt hy sinh như đồng chí Lê Hồng
Phong, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Cừ, Lương Khánh
Thiện, Minh Khai, cùng trăm nghìn đồng chí khác. Và những thanh niên cộng sản
anh dũng như Trọng Con, Hồng Quang. Máu xương của các tiên liệt đã thấm nhuần
gốc rễ của Đảng ta, làm cho cây nó càng vững, ngành nó càng to, và kết quả khai
hoa ngày càng rực rỡ.
Thế giới đại chiến lần thứ hai bùng nổ. Một lần
nữa thực dân Pháp ra tay khủng bố. Nhiều đảng viên bị bắt, bị tù. Nhưng Đảng ta
vẫn đứng vững. Đảng giao cho một số đồng chí thảo kế hoạch đánh Nhật chống
Pháp. Các đồng chí ấy khai hội trên một bãi cỏ ở Quảng Tây. Trong 6,7 người,
tôi chỉ nhớ tên các đồng chí Phùng Tự Do (đã hy sinh ở Na Rì, Bắc Cạn), Phạm
Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp.
Muốn đánh giặc, phải có quân đội. Đội du kích đầu
tiên của nước ta lập ở Cao Bằng, với 12 người, trong đó có hai nữ đồng chí. Đội
này do các đồng chí Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm và Bằng Giang phụ trách. Toàn đội
chỉ có một khẩu “pạc-hoọc”, hai khẩu súng kíp và giáo mác. Thấy vậy, người khác
có thể cười rằng đó là trò chơi trẻ con. Nhưng chính từ cái hạt cỏn con đó mà
nay đã phát triển thành hàng chục vạn Vệ quốc quân và hàng trăm vạn dân quân du
kích đang oanh liệt kháng chiến từ Bắc đến Nam, làm cho giặc Pháp phải kinh
hồn, thế giới phải khen phục.
Trong mấy tháng, đội du kích số một ấy phát triển
đã khá. Đảng giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp cải tổ thành đội Nam tiến.
Khi đã lấy lại sáu tỉnh Việt Bắc và đã lập chính quyền nhân dân, đội Nam tiến
đổi tên là Quân Giải phóng. Cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Cộng hoà
thành lập, Quân Giải phóng trở nên Vệ quốc quân.
Năm nay, Đảng ta mới 19 tuổi. Nhưng suốt 19 năm
ấy, năm nào cũng là một năm đấu tranh dũng cảm. Kinh qua bao nhiêu cơn sóng
gió, bao nhiêu bước khó khăn, càng nhiều gian nan, Đảng ta càng nhiều rèn
luyện, càng thêm vững chắc và rộng lớn. Nhờ chính sách đúng, lãnh đạo chắc, kỷ
luật nghiêm, nhờ tư tưởng thống nhất, mà Đảng ta và dân tộc ta được những thắng
lợi vẻ vang ngày nay.
Tuy vậy, chúng ta tuyệt đối không được tự kiêu,
tự đại.
Chúng ta có nhiều thành công, nhưng chúng ta cũng
còn nhiều khuyết điểm. Mỗi đồng chí ta cần phải mạnh dạn và thành thật kiểm
điểm mình, kiểm điểm đồng chí mình.
- Đã bỏ hết bệnh chủ quan, hẹp hòi chưa?
- Đã bỏ hết tư ý tiểu khí chưa?
- Đã luôn cố gắng học tập, luôn luôn cầu tiến bộ
chưa?
- Đã thực hiện đoàn kết 100% chưa?
- Đã thật cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
chưa?
- Đã thật là người kiểu mẫu trong phong trào thi
đua ái quốc chưa?
Nếu chưa thì phải làm cho kỳ được.
Sứ mệnh của Đảng ta rất to. Công việc Đảng ta rất
nhiều. Đảng đòi hỏi chúng ta phải làm trọn nhiệm vụ của đảng viên.
Không có vinh dự nào to bằng cái vinh hạnh được
làm đảng viên của Đảng Cộng sản. Vì vậy, bất kỳ ở hoàn cảnh nào, làm công việc
gì, chúng ta cũng phải kiên quyết làm cho xứng đáng với vinh hạnh ấy. Như thế,
thì dân tộc giải phóng nhất định thành công, thế giới cách mạng nhất định thành
công.
Trần Thắng Lợi
(Viết đầu năm 1949. Tập san Sinh hoạt nội bộ,
số 13, tháng 1-1949. Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Hà Đông xuất bản thành sách năm
1950)
No comments:
Post a Comment